Translate
Tìm kiếm Blog này
Tìm kiếm Blog này
Thứ Bảy, 25 tháng 6, 2016
TAM CÁCH - NGŨ CƠ
TAM CÁCH NGŨ CƠ
Phong thuỷ chia âm, dương nhị trạch. Khí chia nội, ngoại nhị khí. Địa hình chia sơn long, thuỷ long. Thời gian chia Tam nguyên cửu vận làm lý-Nhị nguyên bát vận làm dụng. Chung quy là sự tuần hoàn của âm dương.
Nơi con người và xe cộ qua lại nhiều mà thành một con đường; nơi con người tìm cách băng sông mà thành một chiếc cầu; nơi con người tránh mưa, nắng và nghĩ ngơi mà thành một ngôi nhà, một thành thị… Những cái này đều là do sức của người làm nên mà không phải tự nhiên có sẵn, nhưng lại tác động trực tiếp vào cuộc sống con người. Dương trạch bí chỉ vì vậy thực không ngoài Tam cách- Ngũ cơ. Vì sao gọi Tam cách, vì sao gọi ngũ cơ?
Tam cách:
Nhất: đó là Thành thị nông thôn, hễ nơi nào nhân dân sống yên ổn, bình hoà. Nơi đó đều có thể cư trú, làm nhà sinh sống. Nơi nào con người luôn gây hấn và thù nghịch với nhau, tất đó là đất dữ, loan đầu lý khí có hợp cũng bằng không.
Nhị: đó là Nơi miền bình dương, ở cạnh sông nước, đường sá thông thoáng, thuận tiện lưu thông, khí hậu mát mẻ. Đó là nơi có thể cư trú, sinh sống. Nếu bình dương mà đất khô cằn, thiếu nước, khí khô khốc thì đó là đất dữ, loan đầu lý khí có hợp cũng bằng không.
Tam: đó là Nơi miền núi cao, cao nguyên, bốn bề núi đá, nơi cứ trú phải có đất bằng rộng lớn, đất phải trồng cây cao to được(đất phải dày). Nơi đó có thể cứ trú, sinh sống. Nếu đất quá ít hoặc quá nông, bốn bề vách đá dựng thẳng thì đó là đất dữ, loan đầu lý khí có hợp cũng bằng không
Ngũ cơ:
Nhất đó là Địa đoạn. Nhà dài mà sâu(hình chữ nhật), nhà vuông(chữ điền) là cách tốt. Nhà nông cửa lớn, nhà gấp khúc, nhà ẩm thấp, nhà thóp hậu, nhà lộ trung cung… đều là hung cách, cho dù thừa vượng khí, cát cũng chuyển hung. Loan đầu lý khí có ích chi?
Lộ trước nhà có hình chữ đinh(ngã ba), hình chữ thả(nhiều đường giao nhau) là tốt; tối kỵ đường hình chữ khốc(như người đứng trước nhà khóc lóc) đơn cử một điều như vậy, thụ sát hình thì sát, thụ cát hình thì cát. Sát tựu trung có đối xung(đối diện thẳng đến), xung yêu(đâm ngang lưng), tà xạ(chém xéo một bên), phản cung(như cánh cung đánh bật lại), cát cước(cắt sát nhà), giao kiếm(như đôi kiếm gác chéo nhau), bàn đà(nằm giữa tâm xoắn ốc), trong các sát bàn đà khó nhận nhưng nhưng lại hung nhất, nếu gặp bàn đà thì tuyệt cả đinh tài toàn gia.
Nhị đó là Phong môn. Phong môn là nơi chính khí nhập xuất, tất phải khai môn nơi sinh vượng để dẫn cát khí nhập phòng thất. Xung quanh nhà nếu có thuỷ, nếu đó là chính thần phương vị thì khai môn chính là thu sơn xuất sát. Xung quanh nhà nếu không có thuỷ, tất khai môn tại linh thần phương vị chính là thu sơn xuất sát. Thu sơn xuất sát chỉ một phép này chứ không có hai. Chính môn nạp được vượng khí, cửa phòng, cửa sau.. cũng nạp được vượng khí thì toàn cát, nếu chính môn vượng khí, các cửa suy khí hay ngược lại thì là ngoại cát nội hung hay nội cát ngoại hung, cả hai trường hợp đều không được trọn vẹn.
Tam đó là Cù hạng. Đường thông ngõ thông là nghĩa của cù hạng, gần hơn là ngõ chính để con người từ nhà ra bên ngoài. Nơi này nếu động khí mạnh thì tức đối cung là quái vận. Như nhà toạ Ly hướng Khảm, cù hạng tại Khảm tức phản đáo thành Ly trạch quái. Cù hạng tại Càn tức phản đáo thành Tốn trạch quái. Ly vượng hạ nguyên mà bại tại thượng nguyên, Tốn vượng trung nguyên mà bại Thượng Hạ nguyên. Thế nên mới có chuyện tinh bàn vượng hướng mà vẫn bại do cù hạng làm chủ tinh bàn, trạch quái biến suy. Cù hạng vượng suy đồ là như vậy.
Nhiều phái gọi cù hạng là thuỷ khẩu, đối cung là lai long. Điều này đúng mà chưa đủ. Cù hạng định rõ phép trừu hào hoàn tượng của trạch quái mà không gọi đó là lai long.
Tứ đó là Kiệu tinh. Kiệu tinh là cây cầu, là nhà cao tầng xung quanh trạch. Kiệu tinh có gần có xa. Kiệu tinh hồi phong phản khí. Khí phương kiệu tinh suy tức phản về trạch cũng là suy khí; khí tại phương kiệu tinh là vượng tức phản về trạch cũng là vượng khí. Nơi phương có hướng tinh suy tử, sơn tinh sinh vượng mà có cây cầu hay nhà cao tầng, khí hồi phản về là khí sinh vượng của sơn, vượng khí hồi đáo bản trạch. Thế nhân nhận lầm đây là thu sơn xuất sát, kỳ thực chỉ là phản khí hồi cung. Nếu nơi phương ấy nhà cao tầng ở xa thì khí không thể phản ngược về, sơn tinh sinh vượng có ích chi? vì nơi ấy chỉ còn suy tử khí mà thôi. Nếu nơi phương ấy nhà cao tầng áp sát một bên thì khí sinh vượng bị bức bí, sơn tinh sinh vượng cũng có ích gì đâu?
Ngũ đó là Ngung không. Ngung không dương trạch tạm xem là mãn(đầy) và không(trống) vậy. Nơi cần mãn được mãn, nơi cần không được không chính là đắc cách vậy. Nơi mãn lại kiến không, nơi không lại kiến mãn là phản cách vậy. Tục gọi thượng sơn hạ thuỷ chính là một ý nhỏ của ngung không. Kỳ thực ngung không diệu dụng lại ở Thời: thời gian này cần mãn, thời khác lại cần không “điên điên đảo châu bảo hoá hoả khanh, hoả khanh hoá châu bảo” đó mới chính là diệu dụng của Ngung không. (Sưu tầm)
***Nghe nói là từ QUY HẬU LỤC của TƯỞNG ĐẠI HỒNG
Thứ Ba, 21 tháng 6, 2016
TỔNG LUẬN PHI TINH
Tổng Luận Phi Tinh
Sau khi đã có sơ đồ phi tinh, tiến hành luận đoán tốt xấu để có phương án bài trí cho phù hợp. Hai cung quan trọng nhất đó là toạ và hướng, bởi hướng là nơi nạp Thiên khí vào nhà chủ quản hoạ phúc. Toạ là nơi nạp Địa khí chủ về nhân đinh, hậu vận. Mỗi cung toạ và hướng có các Phi Tinh Sơn và Hướng, căn cứ vào Sơn Tinh và Hướng Tinh kết hợp để luận đoán tốt xấu. Sau đây luận các cách kết hợp của Sơn Tinh và Hướng Tinh.
Luận phải lấy vượng làm chính, lấy suy làm ngược lại, vượng tinh thì tốt chủ cát lành, suy tinh thì chủ hung bại. Vượng tinh cần được sinh phù, suy tinh cần thu sơn xuất sát. Những cửa chính, cửa phụ được cát tinh sinh vượng chiếu nên sinh hoạt, đi lại nhiều hoặc mở cửa sổ lớn để đón khí. Trường hợp bị hung tinh suy tử chiếu thì cần có cách thức trấn yểm, hoá giải phù hợp, tốt nhất là hạn chế đi lại hoặc mở cửa ở phương khác tốt hơn.
Nhất Bạch
11 : Đào hoa, vượng ứng với quan tinh, chủ văn xương, độc thư, thông minh, văn tài xuất chúng. Suy ứng với tai máu thận suy, di tinh tiết huyết, dâm đãng, x ảy thai, bất đắc chí.
12 : Dễ mắc bệnh dạ dày, ruột, bệnh thận, tai máu, nữ mắc phụ khoa, đẻ non, sảy thai. Trung nam không thuận phải ly tổ bôn ba, quan lộc bị x âm hại.
13 : Tranh chấp, quan phi, đạo tặc, phá tài
14 : Ra ngoài có lợi, dễ thăng chức, văn chương phát quý nổi danh, tài vượng, phụ nữ sang quý. Nếu suy sinh dâm đãng.
15 : Tổn hại nhân đinh, dễ mắc bệnh thận, tai máu, trung nam bị tổn hại.
16 : Phú quý cát lợi, văn tài thông minh, hãm thì dâm loạn
17 : Đào hoa, ra ngoài cát lợi. Nếu hãm thì thương tích, thị phi, tham luyến tửu sắc.
18 : Phạm bệnh tật tai máu, trung nam bất lợi tha hương lưu lạc.
19 : Thuỷ hoả không dung, phạm bệnh tật mắt, tinh thần, trước tốt sau xấu.
Nhị Hắc
21 : Nữ bệnh phụ khoa, tràng vị, nam mắc bệnh tai máu thận, trung nam tổn hại.
22 : Bệnh tật, nữ bệnh phụ khoa, nam mắc bệnh đường ruột. Đắc v ận thì giàu có.
23 : Cách Đấu Ngưu sát chủ quan phi, kiện tụng, khẩu thiệt. Mẹ già tổn hại.
24 : Bất hoà, bệnh phong hàn, khẩu thiệt, kiện tụng, sinh nở khó, hại mẹ già.
25 : Tổn thất nhân đinh, cô quả, mẹ nhiều bệnh.
26 : Đất đai vượng phát, tăng tài, buôn bán phát đạt.
27 : Tiến tài, nhiều hỷ sự, nếu hãm phạm đào hoa, khẩu thiệt, tán tài.
28 : Cách hợp thập chủ cát lợi, dễ đi xa
29 : Sinh đẻ nhiều, nếu v ượng chủ văn tài, thất v ận phòng bệnh tật, sinh người ngu đần.
Tam Bích
31 : Thị phi khẩu thiệt tranh đấu phá tài. Nếu đắc lệnh thì phát quý.
32 : Cách Đấu Ngưu sát chủ thị phi tranh đấu đạo tặc, hại mẹ già, bệnh đường ruột.
33 : Quan phi, thị phi, đạo tặc, đắc lệnh thì phú quý.
34 : Đào hoa, kiếp tặc hại cho nữ. Đắc lệnh văn tài phú quý nổi danh.
35 : Hại tì vị, chủ nhân bất an, hại cho trưởng nam.
36 : Trưởng nam bất lợi, quan phi, thương tích chân tay, đắc lệnh thì quyền uy, phát văn tài.
37 : Phá tài, kiếp đạo, dâm đãng, hại trưởng nam
38 : Bất lợi nhiều bệnh tật, phá tài, tuyệt hậu
39 : Thông minh tiến tài, sinh quý tử
Tứ Lục
41 : Đào hoa dâm đãng, nếu sinh vượng thì xuất ngoại thành danh, v ăn tài xuất chúng
42 : Bệnh tật tỳ vị, hại mẹ già.
43: Dâm loạn, đạo tặc, hại thiếu nữ
44 : Đào hoa, ly tổ, sinh v ượng thì có quý nhân phù trợ, văn tài thành danh.
45 : Nhiều bệnh tốn tài. Sinh vượng thì nhà cửa hưng v ượng
46 : Trước lành sau x ấu, khó sinh, bất lợi trưởng nữ
47 : Cô qủa bất hoà, nạn đao thương thổ huyết, hại trưởng nữ. Sinh vượng thì xuất hiện giai nhân tài sắc
48 : Tổn tài, hại thiếu nam, bệnh phong tật thấp khớp, đào hoa. Tốt lành tiến tài, lợi điền sản.
49 : Sinh quả phụ, đào hoa. Sinh vượng thì Mộc Hoả thông minh, xuất hiện danh sĩ.
Ngũ Hoàng
51 : Tổn nhân đinh, hại trung nam nhiều bệnh tật, bệnh tai máu thận.
52 : Sinh cô quả phụ, nhiều bệnh, bệnh tỳ vị.
53 : Hại trưởng nam, phá tài, nhiều bệnh tật
54 : Phá tài, hại nhân khẩu, bệnh tật
55 : Rất x ấu chủ bệnh tật, hao người tốn của
56 : Nếu sinh vượng thì rất tốt
57 : Bệnh tật, kiếp đạo, đắc thì tiến tài nhiều hỷ sự
58 : Bất lợi thiếu nam, đắc thì cát chủ hoạnh phát tài
59: Sinh nở khó, bệnh tật, thương vong, ăn chơi phá tài
Lục Bạch
61 : Đào hoa dâm loạn, sinh nở khó. Đắc thì quan lộc hanh thông
62 : Bệnh tật, phụ khoa, tổn tài
63 : Tai nạn, bất an, hại trưởng nam
64 : Ly tán, tai nạn, bất an, hại trưởng nữ
65 : Bệnh tinh thần, đắc thì phát tài
66 : Hại trưởng nam, người già, đắc thì quan vận tốt, quyền hành, văn tài xuất hiện.
67 : Đao kiếm sát phạm đao thương, tổn tài, thị phi quan tụng
68 : Đại cát nhiều hỷ sự, lợi quan lộc
69 : Bệnh phế huyết hoả tai, hại cho cha già
Thất Xích
71 : Kim thuỷ đa tình đào hoa, ly hương xuất ngoại, tổn hại lục súc
72 : Khẩu thiệt thị phi hoả tai. đắc vận thì hợp thành Hoả tiên thiên lợi nhị hắc nên phát tài.
73 : Thương trưởng nam, bội nghĩa, thị phi, bệnh tật, quan phi
74 : Hại trưởng nữ, đao thương, bệnh thần kinh
75 : Nhiều bệnh bất an, tửu sắc phá tài
76 : Đao kiếm sát, tổn tài, sinh nhiều nữ
77 : Tổn tài, thị phi. Sinh vượng thì hỷ sự phát tài, sinh nhiều nữ
78 : Cầu tài danh đều lợi, nam nữ đa tình
79 : Tai nạn bệnh tâm khí, hại cho nữ nhỏ
Bát Bạch
81 : Hại trung nam, bệnh tai máu thận
82 : Bệnh tật, hại mẹ già, thiếu niên lao khổ, sinh vượng thì phát tài chủ tốt
83 : Bất lợi, ly hôn, hại thiếu nam
84 : Cô quả, khó sinh nở, hại thiếu nam
85 : Bệnh tật, tai nạn, hại thiếu nam
86 : Văn tài, thông minh cát lợi, sinh quý tử
87 : Sinh v ượng thì tốt cho thiếu nam, thiếu nữ, tài lộc vượng
88 : Đại cát, sinh nhiều con trai
89 : Đinh tài đều vượng nhiều hỷ sự
Cửu Tử
91 : Cách Thuỷ Hoả Ký Tế lợi văn chương, có nhiều danh vọng, công danh tốt.
92 : Phạm bệnh tật, bệnh mắt, phụ khoa
93 : Quan phi khẩu thiệt. Nếu sinh vượng sinh văn sĩ
94 : Đào hoa, hao tài
95 : Nhiều bệnh tật, hoả tai
96 : Sinh bệnh tật, bệnh não, thổ huyết, quan hình
97 : Phá tại, hại thiếu nữ, quan phi khẩu thiệt
98 : Cát lành hỷ sự
99 : Bệnh mắt bệnh thần kinh, sinh vượng thì tốt !
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
http://phongthuynhatnam.com/article/172/tong-luan-phi-tinh.html#.V2n1L6acYq8
Sau khi đã có sơ đồ phi tinh, tiến hành luận đoán tốt xấu để có phương án bài trí cho phù hợp. Hai cung quan trọng nhất đó là toạ và hướng, bởi hướng là nơi nạp Thiên khí vào nhà chủ quản hoạ phúc. Toạ là nơi nạp Địa khí chủ về nhân đinh, hậu vận. Mỗi cung toạ và hướng có các Phi Tinh Sơn và Hướng, căn cứ vào Sơn Tinh và Hướng Tinh kết hợp để luận đoán tốt xấu. Sau đây luận các cách kết hợp của Sơn Tinh và Hướng Tinh.
Luận phải lấy vượng làm chính, lấy suy làm ngược lại, vượng tinh thì tốt chủ cát lành, suy tinh thì chủ hung bại. Vượng tinh cần được sinh phù, suy tinh cần thu sơn xuất sát. Những cửa chính, cửa phụ được cát tinh sinh vượng chiếu nên sinh hoạt, đi lại nhiều hoặc mở cửa sổ lớn để đón khí. Trường hợp bị hung tinh suy tử chiếu thì cần có cách thức trấn yểm, hoá giải phù hợp, tốt nhất là hạn chế đi lại hoặc mở cửa ở phương khác tốt hơn.
Nhất Bạch
11 : Đào hoa, vượng ứng với quan tinh, chủ văn xương, độc thư, thông minh, văn tài xuất chúng. Suy ứng với tai máu thận suy, di tinh tiết huyết, dâm đãng, x ảy thai, bất đắc chí.
12 : Dễ mắc bệnh dạ dày, ruột, bệnh thận, tai máu, nữ mắc phụ khoa, đẻ non, sảy thai. Trung nam không thuận phải ly tổ bôn ba, quan lộc bị x âm hại.
13 : Tranh chấp, quan phi, đạo tặc, phá tài
14 : Ra ngoài có lợi, dễ thăng chức, văn chương phát quý nổi danh, tài vượng, phụ nữ sang quý. Nếu suy sinh dâm đãng.
15 : Tổn hại nhân đinh, dễ mắc bệnh thận, tai máu, trung nam bị tổn hại.
16 : Phú quý cát lợi, văn tài thông minh, hãm thì dâm loạn
17 : Đào hoa, ra ngoài cát lợi. Nếu hãm thì thương tích, thị phi, tham luyến tửu sắc.
18 : Phạm bệnh tật tai máu, trung nam bất lợi tha hương lưu lạc.
19 : Thuỷ hoả không dung, phạm bệnh tật mắt, tinh thần, trước tốt sau xấu.
Nhị Hắc
21 : Nữ bệnh phụ khoa, tràng vị, nam mắc bệnh tai máu thận, trung nam tổn hại.
22 : Bệnh tật, nữ bệnh phụ khoa, nam mắc bệnh đường ruột. Đắc v ận thì giàu có.
23 : Cách Đấu Ngưu sát chủ quan phi, kiện tụng, khẩu thiệt. Mẹ già tổn hại.
24 : Bất hoà, bệnh phong hàn, khẩu thiệt, kiện tụng, sinh nở khó, hại mẹ già.
25 : Tổn thất nhân đinh, cô quả, mẹ nhiều bệnh.
26 : Đất đai vượng phát, tăng tài, buôn bán phát đạt.
27 : Tiến tài, nhiều hỷ sự, nếu hãm phạm đào hoa, khẩu thiệt, tán tài.
28 : Cách hợp thập chủ cát lợi, dễ đi xa
29 : Sinh đẻ nhiều, nếu v ượng chủ văn tài, thất v ận phòng bệnh tật, sinh người ngu đần.
Tam Bích
31 : Thị phi khẩu thiệt tranh đấu phá tài. Nếu đắc lệnh thì phát quý.
32 : Cách Đấu Ngưu sát chủ thị phi tranh đấu đạo tặc, hại mẹ già, bệnh đường ruột.
33 : Quan phi, thị phi, đạo tặc, đắc lệnh thì phú quý.
34 : Đào hoa, kiếp tặc hại cho nữ. Đắc lệnh văn tài phú quý nổi danh.
35 : Hại tì vị, chủ nhân bất an, hại cho trưởng nam.
36 : Trưởng nam bất lợi, quan phi, thương tích chân tay, đắc lệnh thì quyền uy, phát văn tài.
37 : Phá tài, kiếp đạo, dâm đãng, hại trưởng nam
38 : Bất lợi nhiều bệnh tật, phá tài, tuyệt hậu
39 : Thông minh tiến tài, sinh quý tử
Tứ Lục
41 : Đào hoa dâm đãng, nếu sinh vượng thì xuất ngoại thành danh, v ăn tài xuất chúng
42 : Bệnh tật tỳ vị, hại mẹ già.
43: Dâm loạn, đạo tặc, hại thiếu nữ
44 : Đào hoa, ly tổ, sinh v ượng thì có quý nhân phù trợ, văn tài thành danh.
45 : Nhiều bệnh tốn tài. Sinh vượng thì nhà cửa hưng v ượng
46 : Trước lành sau x ấu, khó sinh, bất lợi trưởng nữ
47 : Cô qủa bất hoà, nạn đao thương thổ huyết, hại trưởng nữ. Sinh vượng thì xuất hiện giai nhân tài sắc
48 : Tổn tài, hại thiếu nam, bệnh phong tật thấp khớp, đào hoa. Tốt lành tiến tài, lợi điền sản.
49 : Sinh quả phụ, đào hoa. Sinh vượng thì Mộc Hoả thông minh, xuất hiện danh sĩ.
Ngũ Hoàng
51 : Tổn nhân đinh, hại trung nam nhiều bệnh tật, bệnh tai máu thận.
52 : Sinh cô quả phụ, nhiều bệnh, bệnh tỳ vị.
53 : Hại trưởng nam, phá tài, nhiều bệnh tật
54 : Phá tài, hại nhân khẩu, bệnh tật
55 : Rất x ấu chủ bệnh tật, hao người tốn của
56 : Nếu sinh vượng thì rất tốt
57 : Bệnh tật, kiếp đạo, đắc thì tiến tài nhiều hỷ sự
58 : Bất lợi thiếu nam, đắc thì cát chủ hoạnh phát tài
59: Sinh nở khó, bệnh tật, thương vong, ăn chơi phá tài
Lục Bạch
61 : Đào hoa dâm loạn, sinh nở khó. Đắc thì quan lộc hanh thông
62 : Bệnh tật, phụ khoa, tổn tài
63 : Tai nạn, bất an, hại trưởng nam
64 : Ly tán, tai nạn, bất an, hại trưởng nữ
65 : Bệnh tinh thần, đắc thì phát tài
66 : Hại trưởng nam, người già, đắc thì quan vận tốt, quyền hành, văn tài xuất hiện.
67 : Đao kiếm sát phạm đao thương, tổn tài, thị phi quan tụng
68 : Đại cát nhiều hỷ sự, lợi quan lộc
69 : Bệnh phế huyết hoả tai, hại cho cha già
Thất Xích
71 : Kim thuỷ đa tình đào hoa, ly hương xuất ngoại, tổn hại lục súc
72 : Khẩu thiệt thị phi hoả tai. đắc vận thì hợp thành Hoả tiên thiên lợi nhị hắc nên phát tài.
73 : Thương trưởng nam, bội nghĩa, thị phi, bệnh tật, quan phi
74 : Hại trưởng nữ, đao thương, bệnh thần kinh
75 : Nhiều bệnh bất an, tửu sắc phá tài
76 : Đao kiếm sát, tổn tài, sinh nhiều nữ
77 : Tổn tài, thị phi. Sinh vượng thì hỷ sự phát tài, sinh nhiều nữ
78 : Cầu tài danh đều lợi, nam nữ đa tình
79 : Tai nạn bệnh tâm khí, hại cho nữ nhỏ
Bát Bạch
81 : Hại trung nam, bệnh tai máu thận
82 : Bệnh tật, hại mẹ già, thiếu niên lao khổ, sinh vượng thì phát tài chủ tốt
83 : Bất lợi, ly hôn, hại thiếu nam
84 : Cô quả, khó sinh nở, hại thiếu nam
85 : Bệnh tật, tai nạn, hại thiếu nam
86 : Văn tài, thông minh cát lợi, sinh quý tử
87 : Sinh v ượng thì tốt cho thiếu nam, thiếu nữ, tài lộc vượng
88 : Đại cát, sinh nhiều con trai
89 : Đinh tài đều vượng nhiều hỷ sự
Cửu Tử
91 : Cách Thuỷ Hoả Ký Tế lợi văn chương, có nhiều danh vọng, công danh tốt.
92 : Phạm bệnh tật, bệnh mắt, phụ khoa
93 : Quan phi khẩu thiệt. Nếu sinh vượng sinh văn sĩ
94 : Đào hoa, hao tài
95 : Nhiều bệnh tật, hoả tai
96 : Sinh bệnh tật, bệnh não, thổ huyết, quan hình
97 : Phá tại, hại thiếu nữ, quan phi khẩu thiệt
98 : Cát lành hỷ sự
99 : Bệnh mắt bệnh thần kinh, sinh vượng thì tốt !
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
http://phongthuynhatnam.com/article/172/tong-luan-phi-tinh.html#.V2n1L6acYq8
Thứ Tư, 15 tháng 6, 2016
LUẬN VỀ TƯỚNG CÁCH CỦA NGƯỜI SẮP CHẾT
-Luận về tướng cách của người sắp chết: Biến tướng-Cử chỉ biến đổi-Lời nói khác thường.
a/-BIẾN TƯỚNG
-Hắc yểm Thái dương,Hoàng xâm khẩu giác-có nghĩa là 2 bên thái dương tối đen,chung quanh miệng màu vàng hoe bao bọc.
-Hắc thiệt hoặc điểm thanh-nghĩa là lưỡi đen hoặc trở thành xanh lè.
-Tị đầu khuynh phúc-nghĩa là đầu sống mũi nghiêng vẹo hẳn đi.
-Lưỡng quyền bất đối-nghĩa là hai xương gò má tự nhiên bị lệch lạc.
-Nhãn lộ thần quang-nghĩa là hai mắt lóng lánh sáng ngời.
-Nhãn dung tà thị-nghĩa là mắt hay nhìn trộm,khi người nhìn mình thì lại ngảnh đi,làm như thể không để ý tới ai.
b/-CỬ CHỈ BIẾN ĐỔI
-Thích cậy răng và ưa gảy móng tay.
-Hay vuốt tóc và vuốt mắt.
Hay vân vê tà áo muốn cho có nếp vuông vắn.
-Hay nói chuyện một mình và liếm môi.
-Ngoài ra những người không bệnh hoạn gì mà tự nhiên tỏ ra buồn rầu,bơ thờ hay thở dài,hoặc hay nhìn trộm,theo cử chỉ này từ trước không hề có.
Những người bệnh hoặc không bệnh mà tự nhiên từ đầu gối đến chân sưng lên rồi lại xẹp xuống tới hai lần.
c/-LỜI NÓI KHÁC NGÀY THƯỜNG
Cổ nhân đã nói rằng:”Nhân nhi tương tử kỳ ngôn giả thiện .Điểu nhi tương vong kỳ minh giả ai”Có nghĩa là-Con người khi gần chết hay nói lời lành.Loài chim biết bị chết thì kêu thảm thiết.Bởi vậy người bệnh hoặc không bệnh mặc dầu khi không mà thốt ra tiếng nói lạ kỳ là xấu,thường gọi là nói gở,hoặc trối trăng(di ngôn).những tiếng nói này đại khái như sau:
-hay nói chuyện nhân nghĩa vu vơ để tỏ lòng mình.
-hay nói chuyện chán đời.
-Ưa nói chuyện mai hậu .
-Hay thở dài,chép miệng ,con mắt lờ đờ không phải là mơ mộng ,ưa ngó xa xôi.
-Tự nhiên nói chuyện chia phần, chia của cho con cái hay người khác.
-Theo mấy đặc điểm ghi trên đều là điềm báo trước cho người xấu số !
a/-BIẾN TƯỚNG
-Hắc yểm Thái dương,Hoàng xâm khẩu giác-có nghĩa là 2 bên thái dương tối đen,chung quanh miệng màu vàng hoe bao bọc.
-Hắc thiệt hoặc điểm thanh-nghĩa là lưỡi đen hoặc trở thành xanh lè.
-Tị đầu khuynh phúc-nghĩa là đầu sống mũi nghiêng vẹo hẳn đi.
-Lưỡng quyền bất đối-nghĩa là hai xương gò má tự nhiên bị lệch lạc.
-Nhãn lộ thần quang-nghĩa là hai mắt lóng lánh sáng ngời.
-Nhãn dung tà thị-nghĩa là mắt hay nhìn trộm,khi người nhìn mình thì lại ngảnh đi,làm như thể không để ý tới ai.
b/-CỬ CHỈ BIẾN ĐỔI
-Thích cậy răng và ưa gảy móng tay.
-Hay vuốt tóc và vuốt mắt.
Hay vân vê tà áo muốn cho có nếp vuông vắn.
-Hay nói chuyện một mình và liếm môi.
-Ngoài ra những người không bệnh hoạn gì mà tự nhiên tỏ ra buồn rầu,bơ thờ hay thở dài,hoặc hay nhìn trộm,theo cử chỉ này từ trước không hề có.
Những người bệnh hoặc không bệnh mà tự nhiên từ đầu gối đến chân sưng lên rồi lại xẹp xuống tới hai lần.
c/-LỜI NÓI KHÁC NGÀY THƯỜNG
Cổ nhân đã nói rằng:”Nhân nhi tương tử kỳ ngôn giả thiện .Điểu nhi tương vong kỳ minh giả ai”Có nghĩa là-Con người khi gần chết hay nói lời lành.Loài chim biết bị chết thì kêu thảm thiết.Bởi vậy người bệnh hoặc không bệnh mặc dầu khi không mà thốt ra tiếng nói lạ kỳ là xấu,thường gọi là nói gở,hoặc trối trăng(di ngôn).những tiếng nói này đại khái như sau:
-hay nói chuyện nhân nghĩa vu vơ để tỏ lòng mình.
-hay nói chuyện chán đời.
-Ưa nói chuyện mai hậu .
-Hay thở dài,chép miệng ,con mắt lờ đờ không phải là mơ mộng ,ưa ngó xa xôi.
-Tự nhiên nói chuyện chia phần, chia của cho con cái hay người khác.
-Theo mấy đặc điểm ghi trên đều là điềm báo trước cho người xấu số !
VẪN CÒN THIẾU MỘT NÉN NHANG
CẢ ĐỜI BÁI PHẬT NHƯNG RỐT CUỘC VẪN CÒN THIẾU MỘT NÉN NHANG
Mỗi lần, chàng trai đều thắp ba nén nhang, thành tâm bái lạy cầu khẩn trước tượng Phật. Tuy nhiên, khi vị tôn giả A Nan quay sang vẫn thấy Phật Tổ chỉ mỉm cười không nói gì. Tất cả những lần ấy, những lời cầu xin của chàng trai kia đều không được chứng, bởi Phật Tổ nói rằng: “Vẫn còn thiếu một nén nhang”.
Trong Đại Hùng Bảo Điện nguy nga đồ sộ, có một cậu thiếu niên đang dâng hương cầu khẩn Phật Tổ. Cậu cắm ba nén nhang vào trong lư hương, thầm cầu khẩn rằng: “Nguyện cầu Phật Tổ phù hộ con thi đậu khoa cử, thăng quan tiến chức, tận trung báo quốc, tạo phúc cho người dân trong làng”. Nói xong lại bái lạy vài lần, lúc này mới đứng dậy rời đi.
Phật Tổ nhìn cậu thiếu niên bên dưới chỉ cười mà không nói gì, tôn giả A Nan đứng bên cạnh hỏi rằng: “Thưa Phật Đà, cậu thiếu niên này vô cùng thành khẩn, lời nguyện phát ra lại là nguyện lành, vậy sao Người không nhận lời?”. Phật Tổ chỉ mỉm cười, chậm rãi nói: “Bởi còn thiếu một nén nhang”.
“Còn thiếu một nén?”, tôn giả A Nan nhìn ba nén nhang vẫn còn trong lư hương, nghĩ mãi vẫn không hiểu được.
Thoáng một cái đã mười năm trôi qua, cậu thiếu niên ngây ngô ngày nào giờ đã trở thành một chàng thanh niên khôi ngô tuấn tú, khí phách oai hùng. Kỳ thi năm đó tuy chàng không thi đậu, nhưng ngược lại chàng đã vứt bút tòng quân, trở thành một viên võ tướng, đã lập được nhiều chiến công hiển hách trong quân đội. Lần này về lại quê làng, là đặc biệt trở về cử hành hỷ sự.
Chàng thanh niên vẫn giống như trước đây, thắp ba nén nhang đàn hương, cung kính quỳ lạy trước tượng Phật rằng: “Nguyện cầu Phật Tổ phù hộ cho hạ quan kết được một mối duyên lành, thê tử hiền thục, vợ chồng hòa thuận”. Vừa nói vừa dập đầu sát mặt đất.
Tôn giả A Nan nhìn thấy màn này thì rất xúc động, quay đầu lại nhìn thấy Phật Tổ vẫn mỉm cười không nói gì, lại bèn hỏi rằng: “Thưa Phật Đà, sao Người lại không nhận lời anh ta?”. Phật Tổ cười nói: “Vẫn còn thiếu một nén nhang”.
Nháy mắt lại mười năm đã trôi qua, chàng thanh niên giờ đã bước vào tuổi trung niên. Khi ông đi vào Đại Hùng Bảo Điện lần nữa, trên gương mặt đã phảng phất hiện ra mấy nếp nhăn. Bởi bị bị gia tộc nhà vợ liên lụy, đại tướng quân oai phong lẫm liệt năm nào, giờ đây đã bị giáng chức làm một viên quan quèn ở địa phương; bao nhiêu chí nguyện lớn lao nay đều không thể thực hiện được nữa.
Ông bước vào Bảo Điện dâng hương bái lạy, thầm cầu khẩn, cầu cho con cái của mình có thể chuyên tâm học hành, hoàn thành sự nghiệp dang dở của mình. Tôn giả A Nan nhìn nhìn ông, lại quay sang nhìn Phật Tổ đang mỉm cười không nói gì, trong lòng than rằng: “Rốt cuộc vẫn còn thiếu một nén nhang”.
Mười năm lại trôi qua, người trung niên giờ đây tóc đã hoa râm bước vào tuổi già. Lúc này ông đã giải ngũ về làng, sống an cư nơi thôn dã, không còn chí nguyện to lớn như ngày trước nữa.
Người lão niên thắp ba nén nhang đàn hương giống như trước đây, khấu đầu rằng:
“Phật Tổ, ngày trước con đã nhiều lần đến cầu nguyện, nhưng Người trước sau đều chưa từng nhận lời con dù chỉ một lần. Nhưng một lần này đến đây xin Người hãy thành toàn cho tấm lòng hiếu thảo của con.
Nghĩ đến ngày trước, cha con mất sớm, là mẹ già trong nhà đã vất vả nuôi nấng con khôn lớn thành người. Bây giờ mẹ già tuổi đã cao, chỉ mong bà có thể bình an vô sự, vui vẻ sống quãng đời còn lại, ngoài điều này ra không còn cầu mong gì hơn nữa”.
Tôn giả A Nan nghe thấy những lời này thật không đành lòng, quay đầu nhìn sang Phật Tổ, lại phát hiện trên gương mặt Phật Tổ đã nở nụ cười, nhẹ nhàng gật đầu: “Vậy sẽ như nguyện của con vậy”.
Người lão niên đi ra khỏi chùa, còn chưa về đến nhà, tin mừng đã từ xa truyền lại, hai người con trai của ông lại cùng lúc thi đậu văn võ trạng nguyên trong triều, hơn nữa triều đình còn ban bố chiếu thư rửa sạch nỗi oan của ông, để cho ông khôi phục chức quan, còn thăng lên ba bậc nữa.
Nhưng lần này người lão niên cuối cùng đã không nhận lệnh. Ông đã quyết định từ nay ở lại trong nhà chăm lo cho mẹ già.
Con người ta cả một đời đứng trước tượng Phật chỉ chăm chú cầu khẩn cho những lợi ích, danh vọng của bản thân mình, nhưng rốt cuộc vẫn là còn “thiếu một nén nhang”. Người xưa có câu rằng +“Trăm điều thiện hiếu đứng đầu”,_ tấm lòng hiếu thuận của người con quả thật có thể làm cảm động Đất Trời.
Đọc xong câu chuyện này, mong bạn cũng tỏ lòng biết ơn, thắp một nén nhang cầu nguyện cho cha mẹ, người đã vì bạn mà vất vả một đời này!
(ST)
CHÚC CÁC BẠN & GIA ĐÌNH BUỔI TỐI BÌNH AN, ẤM ÁP
Mỗi lần, chàng trai đều thắp ba nén nhang, thành tâm bái lạy cầu khẩn trước tượng Phật. Tuy nhiên, khi vị tôn giả A Nan quay sang vẫn thấy Phật Tổ chỉ mỉm cười không nói gì. Tất cả những lần ấy, những lời cầu xin của chàng trai kia đều không được chứng, bởi Phật Tổ nói rằng: “Vẫn còn thiếu một nén nhang”.
Trong Đại Hùng Bảo Điện nguy nga đồ sộ, có một cậu thiếu niên đang dâng hương cầu khẩn Phật Tổ. Cậu cắm ba nén nhang vào trong lư hương, thầm cầu khẩn rằng: “Nguyện cầu Phật Tổ phù hộ con thi đậu khoa cử, thăng quan tiến chức, tận trung báo quốc, tạo phúc cho người dân trong làng”. Nói xong lại bái lạy vài lần, lúc này mới đứng dậy rời đi.
Phật Tổ nhìn cậu thiếu niên bên dưới chỉ cười mà không nói gì, tôn giả A Nan đứng bên cạnh hỏi rằng: “Thưa Phật Đà, cậu thiếu niên này vô cùng thành khẩn, lời nguyện phát ra lại là nguyện lành, vậy sao Người không nhận lời?”. Phật Tổ chỉ mỉm cười, chậm rãi nói: “Bởi còn thiếu một nén nhang”.
“Còn thiếu một nén?”, tôn giả A Nan nhìn ba nén nhang vẫn còn trong lư hương, nghĩ mãi vẫn không hiểu được.
Thoáng một cái đã mười năm trôi qua, cậu thiếu niên ngây ngô ngày nào giờ đã trở thành một chàng thanh niên khôi ngô tuấn tú, khí phách oai hùng. Kỳ thi năm đó tuy chàng không thi đậu, nhưng ngược lại chàng đã vứt bút tòng quân, trở thành một viên võ tướng, đã lập được nhiều chiến công hiển hách trong quân đội. Lần này về lại quê làng, là đặc biệt trở về cử hành hỷ sự.
Chàng thanh niên vẫn giống như trước đây, thắp ba nén nhang đàn hương, cung kính quỳ lạy trước tượng Phật rằng: “Nguyện cầu Phật Tổ phù hộ cho hạ quan kết được một mối duyên lành, thê tử hiền thục, vợ chồng hòa thuận”. Vừa nói vừa dập đầu sát mặt đất.
Tôn giả A Nan nhìn thấy màn này thì rất xúc động, quay đầu lại nhìn thấy Phật Tổ vẫn mỉm cười không nói gì, lại bèn hỏi rằng: “Thưa Phật Đà, sao Người lại không nhận lời anh ta?”. Phật Tổ cười nói: “Vẫn còn thiếu một nén nhang”.
Nháy mắt lại mười năm đã trôi qua, chàng thanh niên giờ đã bước vào tuổi trung niên. Khi ông đi vào Đại Hùng Bảo Điện lần nữa, trên gương mặt đã phảng phất hiện ra mấy nếp nhăn. Bởi bị bị gia tộc nhà vợ liên lụy, đại tướng quân oai phong lẫm liệt năm nào, giờ đây đã bị giáng chức làm một viên quan quèn ở địa phương; bao nhiêu chí nguyện lớn lao nay đều không thể thực hiện được nữa.
Ông bước vào Bảo Điện dâng hương bái lạy, thầm cầu khẩn, cầu cho con cái của mình có thể chuyên tâm học hành, hoàn thành sự nghiệp dang dở của mình. Tôn giả A Nan nhìn nhìn ông, lại quay sang nhìn Phật Tổ đang mỉm cười không nói gì, trong lòng than rằng: “Rốt cuộc vẫn còn thiếu một nén nhang”.
Mười năm lại trôi qua, người trung niên giờ đây tóc đã hoa râm bước vào tuổi già. Lúc này ông đã giải ngũ về làng, sống an cư nơi thôn dã, không còn chí nguyện to lớn như ngày trước nữa.
Người lão niên thắp ba nén nhang đàn hương giống như trước đây, khấu đầu rằng:
“Phật Tổ, ngày trước con đã nhiều lần đến cầu nguyện, nhưng Người trước sau đều chưa từng nhận lời con dù chỉ một lần. Nhưng một lần này đến đây xin Người hãy thành toàn cho tấm lòng hiếu thảo của con.
Nghĩ đến ngày trước, cha con mất sớm, là mẹ già trong nhà đã vất vả nuôi nấng con khôn lớn thành người. Bây giờ mẹ già tuổi đã cao, chỉ mong bà có thể bình an vô sự, vui vẻ sống quãng đời còn lại, ngoài điều này ra không còn cầu mong gì hơn nữa”.
Tôn giả A Nan nghe thấy những lời này thật không đành lòng, quay đầu nhìn sang Phật Tổ, lại phát hiện trên gương mặt Phật Tổ đã nở nụ cười, nhẹ nhàng gật đầu: “Vậy sẽ như nguyện của con vậy”.
Người lão niên đi ra khỏi chùa, còn chưa về đến nhà, tin mừng đã từ xa truyền lại, hai người con trai của ông lại cùng lúc thi đậu văn võ trạng nguyên trong triều, hơn nữa triều đình còn ban bố chiếu thư rửa sạch nỗi oan của ông, để cho ông khôi phục chức quan, còn thăng lên ba bậc nữa.
Nhưng lần này người lão niên cuối cùng đã không nhận lệnh. Ông đã quyết định từ nay ở lại trong nhà chăm lo cho mẹ già.
Con người ta cả một đời đứng trước tượng Phật chỉ chăm chú cầu khẩn cho những lợi ích, danh vọng của bản thân mình, nhưng rốt cuộc vẫn là còn “thiếu một nén nhang”. Người xưa có câu rằng +“Trăm điều thiện hiếu đứng đầu”,_ tấm lòng hiếu thuận của người con quả thật có thể làm cảm động Đất Trời.
Đọc xong câu chuyện này, mong bạn cũng tỏ lòng biết ơn, thắp một nén nhang cầu nguyện cho cha mẹ, người đã vì bạn mà vất vả một đời này!
(ST)
CHÚC CÁC BẠN & GIA ĐÌNH BUỔI TỐI BÌNH AN, ẤM ÁP
Thứ Hai, 6 tháng 6, 2016
28 SAO (theo Bao La Vạn Sự) !
Giác - Cang- Đê - Phòng - Tâm -vĩ - Cơ - Đẩu - Ngưu - Nữ - Hư - Nguy - Thất - Bích - Khuê - Lâu - Vị - Mão - Tất - Chuỷ - Sâm - Tỉnh - Quỷ - Liễu - Tinh - Trương - Dực - Chẩn.
Ảnh hưởng tốt xấu của nhị thập bát tú.
Giác - Cang- Đê - Phòng - Tâm -vĩ - Cơ - Đẩu - Ngưu - Nữ - Hư - Nguy - Thất - Bích - Khuê - Lâu - Vị - Mão - Tất - Chuỷ - Sâm - Tỉnh - Quỷ - Liễu - Tinh - Trương - Dực - Chẩn.
Giác mộc giao (thuồng luồng)
Giác tinh khởi sự gặp an khương
Như kẻ sỹ hiện ngộ đế vương
Cưới gả man sanh con quý tử
Táng chôn tang chủ bị song song
(Hợp về cưới gả xây cất đai kỵ về chôn cất)
Cang kim long (rồng)
Sao can lại kỵ dựng cơ đồ
Khởi sự 10 ngày hoạ thấy ngay
Tống tán hôn Nhân cần phải tránh
Nhà suy goá bụa phận đơn côi
(Mọi việc đều kỵ)
Đê thổ lạc (lạc đà)
Để tính xây cất là hung
Giá thú hôn nhân hoạ chẳng cùng
Kỵ mã hành thuyền đều gặp nạn
Chôn cha - chôn mẹ cháu con cung
(Mọi việc đều kỵ)
Phòng nhựt thổ (thỏ)
Sao phòng tạo tác vượng thêm tài
Phú quý vinh hoa phước lộc dài
Mai táng hôn Nhân đều tốt cả
Giá quan tấn tước gái như trai
(Mọi việc đều tốt)
Tâm Nguyệt Hồ (chồn)
Sao tâm tạo tác cực kỳ hung
Muôn việc chẳng tròn chữ thuỷ chung
Mai táng hôn Nhân đều bất lợi
Trong ba năm ngắm hoa Trùng trùng
(Mọi việc đều kỵ)
Vĩ hoả hổ (cọp)
Vì tình xây dựng phát tài nguyên
Gả cưới sớm sanh trao gái tiền
Chôn cất đời đời mồ mả tốt
Cháu con rực rỡ rạng gia tiền
(Mọi sự đều tốt)
Cơ thuỷ báo (beo)
Sao cơ gây dựng cũng là hay
Mở cửa bán buôn được phát tài
Cưới gả cất chôn đều đại lợi
Lúa đầy kho nhẫn ngọc trao tay
(Mọi sự đều tốt)
Đẩu mộc giải (cua)
Sao đẩu cũng là sao cát dương
Cất chon con cháu phúc miên trường
Chăn nuôi cày cấy đều thịnh vượng
Cưới gả rể dâu phúc thọ trường
(Mọi sự đều tốt)
Ngưu Kim Ngưu (trâu)
Ngưu tinh mọi việc gặp tai nguy
Trạch nhật gặp ngày hãy tránh đi
Cưới đã không lâu chồng vợ goá
Cất chôn hoạn nạn hoạ vô kỳ
(Mọi việc đều xấu)
Nữ thổ Bức (dơi)
Nữ tinh toạ tác hại khuê phòng
Cưới gả sẽ thành khách vị phong
Mai táng cháu con đều lụi bại
Gia đình tan nát phận long đong
(Mọi việc đều xấu)
Hư nhất thứ (chuột)
Hư tinh tao tác gặp tai ương
Ly tan gia đình kẻ một phương
Cưới gả hoa dâm loạn đảng
Cháu con trôi dạt thẩm phong sương
(Mọi việc đều xấu)
Nguy nguyệt yếu
Sao nguy xảy cắt có ra gì
An táng ngày này cũng tránh đi
Cưới gả lại càng thêm trở ngại
Một năm mấy lượt khóc ai bi
(Xấu)
Thất hoả trư (lợn)
Thất tình sao tốt chọn mà dùng
Cưới gả sinh toàn con hiếu trung
Táng an phần mộ tai thêm vượng
Phúc lộc miên miên lưng chẳng cùng
(Tốt)
Bích thuỷ da (con nhím)
Sao bích xây nhà thật tốt thay
Hôn nhân an táng phúc thêm dày
Cháu con thanh vượng tài thêm vượng
Hiền hiếu hai đường vẹn thật ngay
(Tốt)
Khuê mộc lang (sói)
Sao khuê xây cất đường được cát tương
Riêng phần cưới gả và chôn cất
Sẽ gặp luôn luôn những hoạ ương
(cưới gả và chôn cất xấu - cất nhà tốt
Lâu kim cẩu (chó)
Sao lâu khỏi sự rạng muôn đường
Chon cất 3 năm cát xương
Cưới gả sanh trai hiền gái quý
Thi đỗ cao khoa cân đế vương
Vị thổ tri (Chim trĩ)
Vị tình tác tố vô cùng
Cưới gả thuận hoà trọn thuỷ chung
Chôn cất được ngày con cháu phát
Thăng quan tiến chức phước trùng trùng
(tốt)
Mão nhật kê (gà)
Trung ngày sao mão tốt ruộng trâu
Chôn cất kiện thưa mãi chẳng thôi
Giá thú hai bên rầu đẫm lệ
Dựng nhà tai hoạ nội năm đầu
(chỉ có làm ruộng tốt - ngoài ra đều xấu)
Tất nguyên ở (quạ)
Sao tốt làm gì cũng đắc thành
Táng an cưới gả phúc lai sinh
Dựng nhà tao tác thêm hựng vượng
Cát khác miên miên đã sẵn dành
(mọi việc đều tốt)
Chủy hoa hầu (khỉ)
Sao chuỷ gây ra quan tụng hình
Táng an con cháu bại gia đình
Làm nhà cưới mang hung hoạ
Tam táng tam tang của sạch sanh
(mọi việc đều xấu)
Sâm thuỷ viên (vượng)
Sao sâm quần hợp cát hung tinh
Tạo tác táng an hoạ hại sinh
Cưới gả cháu con đều gặp khó
Chỉ xây nhà cửa đạng môn dình
(tốt có mỗi việc cất nhà)
Tỉnh mộc lai (rái)
Sao tỉnh cất nhà hợp ruộng vườn
Hôn nhân con cháu rạng gia đường
Táng an chỉ ngại người chết nữa
Tốt xấu phân minh dễ tai ương
(Kỵ chôn cất)
Quỷ kim dương
Mọi việc việc nào cũng gặp hung
Quỷ tình yêu quái hiện vô cùng
Táng an riêng một điềm cát triết
Cát phát tang quan tấn lộc chung
(chỉ hợp một việc chôn cất)
Liễu thổ chướng (con cheo)
Sao liễu làm cho họa tới mau
Hôn nhân tống táng lắm thương đau
Khai trương xây cất đều hư hại
Chỉ một vài năm đến trước sau
(mọi việc đều kỵ)
Tinh nhụt mã (Ngựa)
Xây phòng làm bếp gặp điều may
Cưới gả táng an họa chẳng may
Tử biệt sanh ly không tránh khỏi
Sao tinh gây hoạ khá dằng dai
(chỉ được hai việc xây lò, làm phòng)
Trương nguyệt lộc (nai)
Sao trương cưới gả cháu con hiền
Chôn cất ruộng vườn phúc lộc miên
Khởi sự gặp ngày này rất quý
Tài năng tấn lộc tấn rạng điền viên
(mọi sự đều tốt)
Dực hoả xà (rắn)
Sao chủ cất nhà chủ tử vong
Hôn nhân cưới gái phải hai chồng
Táng an tai hoạ luôn đưa tới
Của sạch người xa con cháu không
(mọi sự đều xấu)
Chẩn thuỷ dấu (con sau)
Thăng quan thăng thọ ấy sao này
Cưới vợ cất nhà tốt đẹp thay
Tu táng, mả mồ mau kết phát
Cháu tinh phú quý cháu con bày
(mọi việc đều tốt)
Ảnh hưởng tốt xấu của nhị thập bát tú.
Giác - Cang- Đê - Phòng - Tâm -vĩ - Cơ - Đẩu - Ngưu - Nữ - Hư - Nguy - Thất - Bích - Khuê - Lâu - Vị - Mão - Tất - Chuỷ - Sâm - Tỉnh - Quỷ - Liễu - Tinh - Trương - Dực - Chẩn.
Giác mộc giao (thuồng luồng)
Giác tinh khởi sự gặp an khương
Như kẻ sỹ hiện ngộ đế vương
Cưới gả man sanh con quý tử
Táng chôn tang chủ bị song song
(Hợp về cưới gả xây cất đai kỵ về chôn cất)
Cang kim long (rồng)
Sao can lại kỵ dựng cơ đồ
Khởi sự 10 ngày hoạ thấy ngay
Tống tán hôn Nhân cần phải tránh
Nhà suy goá bụa phận đơn côi
(Mọi việc đều kỵ)
Đê thổ lạc (lạc đà)
Để tính xây cất là hung
Giá thú hôn nhân hoạ chẳng cùng
Kỵ mã hành thuyền đều gặp nạn
Chôn cha - chôn mẹ cháu con cung
(Mọi việc đều kỵ)
Phòng nhựt thổ (thỏ)
Sao phòng tạo tác vượng thêm tài
Phú quý vinh hoa phước lộc dài
Mai táng hôn Nhân đều tốt cả
Giá quan tấn tước gái như trai
(Mọi việc đều tốt)
Tâm Nguyệt Hồ (chồn)
Sao tâm tạo tác cực kỳ hung
Muôn việc chẳng tròn chữ thuỷ chung
Mai táng hôn Nhân đều bất lợi
Trong ba năm ngắm hoa Trùng trùng
(Mọi việc đều kỵ)
Vĩ hoả hổ (cọp)
Vì tình xây dựng phát tài nguyên
Gả cưới sớm sanh trao gái tiền
Chôn cất đời đời mồ mả tốt
Cháu con rực rỡ rạng gia tiền
(Mọi sự đều tốt)
Cơ thuỷ báo (beo)
Sao cơ gây dựng cũng là hay
Mở cửa bán buôn được phát tài
Cưới gả cất chôn đều đại lợi
Lúa đầy kho nhẫn ngọc trao tay
(Mọi sự đều tốt)
Đẩu mộc giải (cua)
Sao đẩu cũng là sao cát dương
Cất chon con cháu phúc miên trường
Chăn nuôi cày cấy đều thịnh vượng
Cưới gả rể dâu phúc thọ trường
(Mọi sự đều tốt)
Ngưu Kim Ngưu (trâu)
Ngưu tinh mọi việc gặp tai nguy
Trạch nhật gặp ngày hãy tránh đi
Cưới đã không lâu chồng vợ goá
Cất chôn hoạn nạn hoạ vô kỳ
(Mọi việc đều xấu)
Nữ thổ Bức (dơi)
Nữ tinh toạ tác hại khuê phòng
Cưới gả sẽ thành khách vị phong
Mai táng cháu con đều lụi bại
Gia đình tan nát phận long đong
(Mọi việc đều xấu)
Hư nhất thứ (chuột)
Hư tinh tao tác gặp tai ương
Ly tan gia đình kẻ một phương
Cưới gả hoa dâm loạn đảng
Cháu con trôi dạt thẩm phong sương
(Mọi việc đều xấu)
Nguy nguyệt yếu
Sao nguy xảy cắt có ra gì
An táng ngày này cũng tránh đi
Cưới gả lại càng thêm trở ngại
Một năm mấy lượt khóc ai bi
(Xấu)
Thất hoả trư (lợn)
Thất tình sao tốt chọn mà dùng
Cưới gả sinh toàn con hiếu trung
Táng an phần mộ tai thêm vượng
Phúc lộc miên miên lưng chẳng cùng
(Tốt)
Bích thuỷ da (con nhím)
Sao bích xây nhà thật tốt thay
Hôn nhân an táng phúc thêm dày
Cháu con thanh vượng tài thêm vượng
Hiền hiếu hai đường vẹn thật ngay
(Tốt)
Khuê mộc lang (sói)
Sao khuê xây cất đường được cát tương
Riêng phần cưới gả và chôn cất
Sẽ gặp luôn luôn những hoạ ương
(cưới gả và chôn cất xấu - cất nhà tốt
Lâu kim cẩu (chó)
Sao lâu khỏi sự rạng muôn đường
Chon cất 3 năm cát xương
Cưới gả sanh trai hiền gái quý
Thi đỗ cao khoa cân đế vương
Vị thổ tri (Chim trĩ)
Vị tình tác tố vô cùng
Cưới gả thuận hoà trọn thuỷ chung
Chôn cất được ngày con cháu phát
Thăng quan tiến chức phước trùng trùng
(tốt)
Mão nhật kê (gà)
Trung ngày sao mão tốt ruộng trâu
Chôn cất kiện thưa mãi chẳng thôi
Giá thú hai bên rầu đẫm lệ
Dựng nhà tai hoạ nội năm đầu
(chỉ có làm ruộng tốt - ngoài ra đều xấu)
Tất nguyên ở (quạ)
Sao tốt làm gì cũng đắc thành
Táng an cưới gả phúc lai sinh
Dựng nhà tao tác thêm hựng vượng
Cát khác miên miên đã sẵn dành
(mọi việc đều tốt)
Chủy hoa hầu (khỉ)
Sao chuỷ gây ra quan tụng hình
Táng an con cháu bại gia đình
Làm nhà cưới mang hung hoạ
Tam táng tam tang của sạch sanh
(mọi việc đều xấu)
Sâm thuỷ viên (vượng)
Sao sâm quần hợp cát hung tinh
Tạo tác táng an hoạ hại sinh
Cưới gả cháu con đều gặp khó
Chỉ xây nhà cửa đạng môn dình
(tốt có mỗi việc cất nhà)
Tỉnh mộc lai (rái)
Sao tỉnh cất nhà hợp ruộng vườn
Hôn nhân con cháu rạng gia đường
Táng an chỉ ngại người chết nữa
Tốt xấu phân minh dễ tai ương
(Kỵ chôn cất)
Quỷ kim dương
Mọi việc việc nào cũng gặp hung
Quỷ tình yêu quái hiện vô cùng
Táng an riêng một điềm cát triết
Cát phát tang quan tấn lộc chung
(chỉ hợp một việc chôn cất)
Liễu thổ chướng (con cheo)
Sao liễu làm cho họa tới mau
Hôn nhân tống táng lắm thương đau
Khai trương xây cất đều hư hại
Chỉ một vài năm đến trước sau
(mọi việc đều kỵ)
Tinh nhụt mã (Ngựa)
Xây phòng làm bếp gặp điều may
Cưới gả táng an họa chẳng may
Tử biệt sanh ly không tránh khỏi
Sao tinh gây hoạ khá dằng dai
(chỉ được hai việc xây lò, làm phòng)
Trương nguyệt lộc (nai)
Sao trương cưới gả cháu con hiền
Chôn cất ruộng vườn phúc lộc miên
Khởi sự gặp ngày này rất quý
Tài năng tấn lộc tấn rạng điền viên
(mọi sự đều tốt)
Dực hoả xà (rắn)
Sao chủ cất nhà chủ tử vong
Hôn nhân cưới gái phải hai chồng
Táng an tai hoạ luôn đưa tới
Của sạch người xa con cháu không
(mọi sự đều xấu)
Chẩn thuỷ dấu (con sau)
Thăng quan thăng thọ ấy sao này
Cưới vợ cất nhà tốt đẹp thay
Tu táng, mả mồ mau kết phát
Cháu tinh phú quý cháu con bày
(mọi việc đều tốt)
Thứ Sáu, 3 tháng 6, 2016
THẬT NGHĨA TU HÀNH ...
Thật Nghĩa Tu Hành ...
Chắp tay đâu chỉ khép hờ
Mà còn thể hiện vô bờ kính tin
Lễ lạy, khúm núm, cầu xin
Đâu bằng bỏ thói ngông nghênh với đời.
Lâm râm niệm Phật đầu môi
Thị phi.. không dứt, ấy thời uổng công.
Bố thí chẳng với Tấm Lòng
Kể công kể trạng, Đức không còn gì!
Học nhiều nuôi lớn thức tri
Sớm chiều hơn thiệt, sân si.., cũng thừa!
Tu theo ''hiện tượng'', theo mùa
Quẩn quanh trước ngõ.. còn chưa lối vào.
- Vui mừng không phải xôn xao
Mà tâm an lạc khác nào lưu ly
Miệng dầu ''Mô Phật, Từ bi''
Sao bằng lặng lẽ sống vì tha nhân.
Vàng Y Pháp phục ly trần
Nếu không buông bỏ.. vô phần Giác tâm.
Trong khi đi, đứng, ngồi, nằm
Tâm luôn có mặt với thân, tức Thiền
Dẫu còn sống giữa trần duyên
Tham, Sân.. chẳng khởi ấy miền Lạc bang
Dù không thắp một nén nhang
Vẹn toàn giới hạnh.. cúng dàng Thích Ca..
Tu từ trong ruột tu ra
Chớ tu vì.. mắt người ta ngó mình,
Mong manh cái kiếp hữu tình
Vướng chi mấy chuyện linh tinh.. hết giờ!
Mấy dòng thô thiển, đơn sơ
Tu là trở lại bến bờ tự tâm
Ngày đêm quán niệm âm thầm
Mây tan ló diện trăng rằm Tuệ quang...
... Như Nhiên ...
Nam Mô A Di Đà Phật
Chắp tay đâu chỉ khép hờ
Mà còn thể hiện vô bờ kính tin
Lễ lạy, khúm núm, cầu xin
Đâu bằng bỏ thói ngông nghênh với đời.
Lâm râm niệm Phật đầu môi
Thị phi.. không dứt, ấy thời uổng công.
Bố thí chẳng với Tấm Lòng
Kể công kể trạng, Đức không còn gì!
Học nhiều nuôi lớn thức tri
Sớm chiều hơn thiệt, sân si.., cũng thừa!
Tu theo ''hiện tượng'', theo mùa
Quẩn quanh trước ngõ.. còn chưa lối vào.
- Vui mừng không phải xôn xao
Mà tâm an lạc khác nào lưu ly
Miệng dầu ''Mô Phật, Từ bi''
Sao bằng lặng lẽ sống vì tha nhân.
Vàng Y Pháp phục ly trần
Nếu không buông bỏ.. vô phần Giác tâm.
Trong khi đi, đứng, ngồi, nằm
Tâm luôn có mặt với thân, tức Thiền
Dẫu còn sống giữa trần duyên
Tham, Sân.. chẳng khởi ấy miền Lạc bang
Dù không thắp một nén nhang
Vẹn toàn giới hạnh.. cúng dàng Thích Ca..
Tu từ trong ruột tu ra
Chớ tu vì.. mắt người ta ngó mình,
Mong manh cái kiếp hữu tình
Vướng chi mấy chuyện linh tinh.. hết giờ!
Mấy dòng thô thiển, đơn sơ
Tu là trở lại bến bờ tự tâm
Ngày đêm quán niệm âm thầm
Mây tan ló diện trăng rằm Tuệ quang...
... Như Nhiên ...
Nam Mô A Di Đà Phật
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)