THỦY PHÁP TRƯỜNG SINH ( Tiếp theo ).
1/ TAM HỢP CỤC.
* Thân - Tý - Thìn - Tam hợp Thủy cục. ( Trường sinh tại Thân - Đế vượng tại Tý - Mộ tại Thìn ).
* Dần - Ngọ - Tuất - Tam hợp Hỏa cục ( Trường sinh tại Dần - Đế vượng tại Ngọ - Mộ tại Tuất ).
* Tỵ - Dậu - Sửu - Tam hợp cục Kim ( Trường sinh tại Tỵ - Đế vượng tại Dậu- Mộ tại Sửu ).
* Hợi - Mão - Mùi - Tam hợp cục Mộc ( Trường sinh tại Hợi - Đế vượng tại Mão - Mộ tại Mùi ).
2/ QUY ĐỊNH TRONG PHONG THỦY.
*Tên chi đầu là dòng nước chảy đến gọi là Thủy đầu ( Thủy lai ).
*Tên chi cuối là dòng nước chảy đi gọi là Thủy khẩu .
* Tên chi giữa là hướng nhà hay Huyệt mộ.
3/ TAM HỢP CỤC KẾT HỢP VÒNG TRƯỜNG SINH.
*Tên chi đầu ứng với sao Trường sinh.
* Tên chi giữa ứng với sao Đế vượng.
*Tên chi cuối ứng với sao Mộ.
4/ 12 SAO CỦA VÒNG TRƯỜNG SINH .
Trường sinh - Mộc dục - Quan đới - Lâm quan - Đế vượng - Suy - Bệnh - Tử - Mộ - Tuyệt - Thai - Dưỡng.
5/ DƯƠNG CỤC VÀ ÂM CỤC.
* Dương Thủy long cục : Thân - Tý - Thìn.
* Âm Thủy long cục : Mão - Hợi - Mùi.
* Dương Kim long cục : Tỵ - Dậu - Sửu.
* Âm Kim long cục : Tý - Thân - Thìn.
* Dương Hỏa long cục : Dần - Ngọ - Tuất.
* Âm Hỏa long cục : Dậu - Tỵ - Sửu.
* Dương Mộc long cục : Hợi - Mão - Mùi.
Âm Mộc long cục : Ngọ - Dần - Tuất.
* Dòng nước chảy từ Trường sinh đến Đế vương rồi ra Mộ theo chiều từ trái qua phải là Dương long cục.
* Dòng nước chảy từ Trường sinh đến Đế vương rồi ra Mộ theo chiều từ phải qua trái là Âm long cục.
* Dòng nước chảy từ Đế vượng tới Trường sinh ra Mộ theo chiều từ phải qua trái gọi là Dương long cục.
* Dòng nước chảy từ Đế vượng tới Trường sinh ra Mộ theo chiều từ trái qua phải gọi là Âm long cục.
6/ XÁC ĐỊNH HƯỚNG LONG CỤC.
* Dương Kim long cục - Trường sinh ở Tỵ.
* Âm Kim long cục - Trường sinh ở Tý.
* Dương Mộc long cục - Trường sinh ở Hợi.
* Âm Mộc long cục - Trường sinh ở Ngọ.
* Dương Hỏa long cục - Trường sinh ở Dần.
* Âm Hỏa long cục - Trường sinh ở Dậu.
* Dương Thủy long cục - Trường sinh ở Thân.
* Âm Thủy long cục - Trường sinh ở Mão.
7/ THỦY PHÁP TRƯỜNG SINH CÁT LỢI.
* Dòng nước chảy từ Trường sinh đến Minh đường thì lợi về nhân khẩu, con cháu thịnh vượng.
* Dòng nước chẩy từ Đế vượng đến Minh đường thì lợi về quan danh, sự nghiệp, nhiều tài lộc.
* Dòng nước chẩy từ Quan đới đến Minh đường thì lợi cho gia đình phong hóa, con cháu học giỏi , thông minh.
* Dòng nước chẩy từ Lâm quan đến Minh đường thì tuổi trẻ làm quan chức, công danh thành đạt.
* Dòng nước chẩy từ Mộc dục đến Minh đường thì sinh cờ bạc , rượu ché, gia tài khánh kiệt, gia phong bại hoại.
* Dòng nước chẩy từ Suy đến Minh đường thì gặp tai họa, tối kị, nếu không chảy đến Minh đường thì con cháu công danh, phú quý.
* Dòng nước chẩy từ Mộ đến Minh đường thì hung , kị, nếu có dòng nước chảy quanh co thì có người nổi danh.
* Dòng nước chẩy từ Bệnh - Tử đến Minh đường thì gặp tai họa, nếu không chảy qua Minh đường thì tốt đẹp.
* Dòng nước chẩy từ Tuyệt - Thai đến Minh đường thì gia đình bất hòa , hại người tốn của.
8/ LẬP HƯỚNG VÀ NGHÊNH LỘC.
* Khi tiến hành lập hướng phải xác định được Dương hay Âm long cục, Dương hay Âm hướng . Nếu Long cục và Hướng cùng Dương hay Âm tức là Thuần Âm hay Thuần Dương thì phải được xử lý bằng cách lấy Hướng ở Sơn này kiêm Sơn kia 3 phân, như vậy tránh được cô Âm hay cô Dương.
* Trong 24 Sơn , Hướng có 8 Can, tại Sơn của mình Can đều được nghênh Lộc :
- Giáp nghênh Lộc tại Dần.
- Ất nghênh Lộc tại Mão.
- Bính nghênh Lộc tại Tị.
- Đinh nghênh Lộc tại Ngọ.
- Canh nghênh Lộc tại Thân.
- Tân nghênh Lộc tại Dậu.
- Nhâm nghênh Lộc tại Hợi.
- Quý nghênh Lộc tại Tý.
9/ BÁT SÁT.
Mối quan hệ hung sát :
1, Giữa Long và dòng nước chảy vào Minh đường.
2, Giữa Long và hướng nhà, Huyệt mộ.
3, Giữa hướng Nhà, Huyệt mộ và ngày khởi công.
* Ngọ sát Càn.
* Thìn sát Khảm.
* Dần sát Cấn.
* Thân sát Chấn.
* Dậu sát Tốn.
* Hợi sát Ly.
* Mão sát Khôn.
* Tỵ sát Đoài.
Quan hệ Bát sát là quan hệ Ngũ hành sinh khắc.
5. PHÉP XÁC LẬP QUẺ CỦA HUYỆT VỊ.
( Theo Tam quái pháp ).
Thông thường Huyệt phát dài nhất thời gian là 540 năm. Trường hợp đặc biệt mới có thể vượt qua Đại vận 1080 năm.
Có thơ rằng :
" Nhất cá sơn trung hạ thập phần,
Nhất phần phú quý cửu phần bần.
Cộng Đường, công Án , cộng Sơn Thủy,
Diệu tại Huyệt trường , nhận đắc chân ".
Phép xác lập quẻ của Huyệt vị bao gồm 9 bước :
Bước 1 : Xét Long nhập thủ theo Tam hợp Ngũ hành ( để xem Long nhập thủ theo 24 Sơn , được Sơn gì ? Âm hay Dương ? ).
Bước 2 : Đo Long nhập thủ để xem Long nhập thủ do Sao nào quản cục.
Bước 3 : Phối giữa quẻ của Long theo Tam hợp Ngũ hành lấy được ở bước 1 với Sao quản cục ở bước 2 thoe phép biến " Nhất biến thượng vi Tham ". Kết quả ra Sao gì ? Sao đó thuộc quẻ gì thì quẻ đó gọi là LONG QUÁI.
Bước 4 : Lấy Long quái nhập trung cung rồi thuận hay nghịch khởi theo quỹ đạo của Sao quản cục Long nhập thủ ( lấy được ở bước 2 ) , chạy tới Tọa sơn của Huyệt vị theo Chính Ngũ hành ra quẻ gì ? Quẻ đó là " LONG SƠN QUÁI ".
Bước 5 : Lấy Long sơn quái phối với quẻ thuộc quản cung Tam hợp Tọa sơn ở Huyệt vị , rồi theo phép thứ 3 ( Nhất biến hạ vi liêm ) , ra quẻ gì ? Quẻ đó là QUẺ HẠ của Huyệt vị.
Bước 6 : Lại lấy chủ tinh biến quái của Minh đường Thủy ( Theo Bát diệu thủy pháp ) nhập trung cung , rồi thuận hay nghịch khởi theo quỹ đạo của Sao quản cục của Minh đường chạy tới Hướng của Huyệt vị, ra quẻ gì ? thì quẻ đó là THỦY HƯỚNG QUÁI của Huyệt vị.
Bước 7 : Lấy Hướng quái phối với quẻ bản cung Tam hợp chiếu Hướng của Huyệt vị theo phép biến 3 ( Nhất biến hạ vi liêm ) , ra quẻ gì ? thì quẻ đó là quẻ THƯỢNG của Huyệt vị.
Bước 8 : Phối giữa 2 quẻ Sơn và quẻ Hướng của Huyệt ( Chồng quẻ Thượng ở bước 7 lên Quẻ Hạ ở bước 5 ) ta được QUẺ CỦA HUYỆT VỊ cần tìm.
Bước 9 : Tìm Nguyên đường và hào động.
THẾ NGUYÊN ĐƯỜNG THÂN QUẺ.
ỨNG ĐỘNG HÀO CHỦ
Trong quẻ có 6 vấn đề :
1/ Quan chức : Do hào Quan quỷ phụ trách.
2/ Tài lộc : Do hào Thê tài phụ trách.
3/ Điền trạch : Do hào Phụ mẫu phụ trách.
4/ Bằng cấp : Do hào Phụ mẫu phụ trách.
5/ Nhân đinh : Do hào Huynh đện phụ trách.
6/ Phúc đức : Do hào Tử tôn phụ trách.
TÌM NGUYÊN ĐƯỜNG .
Nguyên đường căn cứ vào quẻ gốc của Huyệt vị lấy ở bước 8 . Trường hợp là nam nhân, nếu thấy hào Dương thì khởi Sao Văn khúc , nếu thấy hào Âm thì khởi Sao Cự môn.
Nếu là nữ nhân : nếu thấy hào Dương thì khởi Sao Cự môn, nếu thấy hào Âm thì khởi Sao văn khúc.
Khởi thuận cho đến sao Chủ mệnh của vong mệnh , mỗi sao một hào theo thứ tự của phép ( Nhất biến hạ vi Liêm ) . Dừng tại hào nào thì hào đó là HÀO NGUYÊN ĐƯỜNG.
TÌM HÀO ĐỘNG.
Từ hào Nguyên đường coi là Tý, thuận đến chi của năm sinh vong mệnh , dừng tại hào nào thì hào đó là HÀO ĐỘNG.
Nguồn: http://phongthuyhanh.com/?x=168/phong-thuy-luan/thuy-phap-truong-sinh-p2
Translate
Tìm kiếm Blog này
Tìm kiếm Blog này
Thứ Sáu, 29 tháng 1, 2016
THỦY PHÁP. Ý NGHĨA CỦA CÁC SAO VÒNG TRƯỜNG SINH
THỦY PHÁP
Ý NGHĨA CỦA CÁC SAO VÒNG TRƯỜNG SINH.
1/ SAO THAM LANG ( SINH - DƯỠNG ).
Thủy Dưỡng - Sinh chảy đến Minh đường , sao Tham Lang chiếu xạ Huyệt vị. Chủ sinh con cháu nổi danh văn tài, nhân đinh đông đúc, tính nết hiền lương. Dòng trưởng đời con cháu phát phúc phát quý, trung hậu, hiếu lễ. Nếu Lai Thủy càng uồn lượn quanh co chảy tới thì cành vinh hoa phú quý trường cửu và trong họ có nhiều người giữ chức vụ to trong triều đình. Còn nếu Thủy hiền hòa bao bọc thì phát Phúc và Lộc. Nếu thủy Dưỡng - Sinh chảy đi hoặc xối thẳng vào Huyệt vị thì sẽ bị phá tuyệt, vợ và con dâu sớm thành cô quả.
Có thơ rằng :
" Đệ nhất Dưỡng , Sinh thủy đáo đường ,
Tham Lang tinh chiếu hiển văn chương,
Trưởng vị , nhị tôn đa phú quý,
Nhân đinh xương chức tính trung lương.
Thủy cuốn chi huyền quan chức trọng,
Thủy tiểu loan hoàn phú thọ trường.
Dưỡng , Sinh lưu phá trung tu huyệt,
Thiếu niên, quả phụ thư không phòng".
Dịch như sau :
" Dưỡng , Sinh đem nước lại Minh đường,
Con cháu khoa danh phát văn chương.
Ngành trưởng giầu sang cao chức trọng,
Trong họ nhiều người tính trung lương.
Nước cuộn lượn về quyền chức trọng,
Nước tiêu Sinh , Dưỡng lắm tai ương.
Phá tán điền trang tha hương xứ,
Trai cô , gái góa tủi sầu thương ".
2/ SAO VĂN KHÚC ( MỘC DỤC - ĐÀO HOA ).
Thủy Mộc dục chảy đến Minh đường , sao Văn khúc chiếu xạ Huyệt vị là Đào hoa sát Thủy chủ dâm đãng. Con gái trong nhà dâm loạn không thể quản lý được . Hoặc bỏ nhà theo trai hoặc vì tình mà gieo mình xuống sông , xuống giếng tự vẫn . Gia sản lụn bại, tông tộc suy đồi , đầy dẫy tai họa bệnh tật . Nếu Mộc dục thủy từ cung Tý - Ngọ chảy đến thì ruộng vườn bán sạch . Nếu Mộc dục thủy từ phương Mão - Dậu chảy đến thì sinh người ham mê cờ bạc , rượu chè, nghiện hút , tiêu xài hoang phí dẫn đến ngục đường.
Thơ rằng :
" Mộc dục thủy lai phạm Đào hoa,
Nữ tử dâm loạn bất do tha,
Đầu hà tự ải tùy nhân tẩu,
Huyết bệnh tự tai phá bại gia.
Tý - Ngọ thủy lai điền nghiệp tận.
Mão - Dậu lưu lai hiếu tham hoa.
Nhược hoàn lưu hóa sinh thần vị,
Trụy thai dâm thanh đới quả già ".
Dịch :
" Mộc dục nước về phạm Đào hoa,
Gái trai dẫm đãng loạn trong nhà,
Thắt cổ, trầm mình, người quyến rũ.
Tý - Ngọ nước về nhà, ruộng hết.
Huyết bệnh lại thêm khổ quan nha.Mão - Dậu rượu chè, đổ bác sa.
Hút sách tiêu sài nhiều bệnh tật,
Tụng đình , hình ngục khổ can qua.
Nếu bát diệu Thủy pháp Minh đường có các sao Tham Lang, Cự Môn, Vũ Khúc. Phụ Bật thì có thể dùng nước chảy tới từ phương Mộc dục.
3/ SAO VĂN KHÚC ( QUAN ĐỚI ).
Thủy Quan đới chảy đến Minh đường , sao Văn khúc chiếu xạ Huyệt vị . Chủ con cháu thông minh , trí tuệ hơn người , phong lưu. Trong nhà xuất hiện thần đồng , 7 tuổi đã uyên bác . Nếu Quan đới thủy mà chảy tuột đi thì thiếu niên chết yểu , nữ nhân bị tổn hại.
Thơ rằng :
" Quan đới thủy lai , nhân thông tuệ,
Vi chủ phong lưu thích bạc bài.
Thất niên thơ ấu hay thơ phú
Văn chương bác sĩ vạn nhân khoa ,
Thủy phần lưu khứ tối vị hung,
Cánh cổn thâm khuê kiều thái nữ.
Thử cương bình súc hóa vi cát "
Dịch :
" Quan đới nước triều học thông minh,
Rượu , chè , cờ bạc mãi phong tình.
Thần đồng nổi tiếng thời thơ ấu,
Phú lục văn thơ vượng thịnh danh.
Văn khúc nước đi con thứ hại,
Sát hại biết bao trẻ sơ sinh.
Ai oán phòng không thương kiều nữ.
Quan đới nước lại tốt cát lành.
4/ SAO VŨ KHÚC ( LÂM QUAN ).
Thủy Lâm quan chảy đến Minh đường - Sao Vũ khúc chiếu xạ Huyệt vị. Chủ đại cát đại lợi. Thiếu niên đã sớm thi đỗ làm quan , gặp nhiều may mắn, thăng quan tiến chức . Tối kị Lâm quan thủy chảy đi , làm cho con cái đang thành đạt chết yểu, con dâu , con gái sớm để tang chồng, gia nghiệp lụn bại.
Thơ rằng :
" Lâm quan vị thượng thủy tư tich,
Lộc mã triều nguyên hỷ khí tân.
Hiền tướng trù mưu tá thánh nhân,
Tối kị Lâm quan xuất Thủy khứ.
Thành tài chi tử tạ vong ân,
Tài cốc không hư triệt gốc bần".
Dịch :
" Lâm quan nước triều phúc lộc giăng,
Lộc, Mã triều nguyên lắm sự hay,
Hiển tướng đương phần nhẹ đường mây,
Lâm quan thủy khứ tử tôn yểu,
Gái góa cơ cùng khóc đêm ngày ".
5/ SAO VŨ KHÚC ( ĐẾ VƯỢNG ).
Thủy Đế vượng chảy đến Minh đường - Sao Vũ khúc chiếu xạ Huyệt vị. Chủ tài lộc tốc phát , con cháu nhiều người làm quan to , tước cao , lộc hậu , uy danh lừng lẫy , tiền bạc đổ vào nhà như nước . Nhưng Đế vượng thủy tốc phát mà không bền . Nếu lại xung tán thì có giầu như Thạch sùng cũng bị phá sản , lụn bại.
Cổ nhân xưa có nói : " Kẻ tham vinh hoa , phú quý thì bỏ Dưỡng, Trường sinh mà nghênh tiếp Vượng thần . Muốn đời con cháu lâu dài thì bỏ Vượng thần mà nghên tiếp Dưỡng - Trường sinh ".
Thơ rằng :
" Đế vượng triều lai tụ diện tiền,
Nhất đường vượng khí phát trang điền.
Quan cao, tước trọng , uy danh hiển,
Kim cốc phong danh hữu thừa thiên.
Vượng khương lưu khứ căn cơ bạc,
Thực thực cơ hàn quán thượng thiên ".
Dịch :
" Đế vượng nước triều vượng gia tài,
Tước cao, lộc hậu nhất quan giai,
Vàng bạc đầy rương , lúa đầy lẫm,
Đáng sợ nước tù khứ bất lai,
Thạch sùng hào phú cũng vì vậy ,
Giầu xổi rồi mai hết đồ xài ".
6/ SAO CỰ MÔN ( SUY ).
Thủy Suy chảy tới Minh đường - Sao Cự môn chiếu xạ Huyệt vị. Chủ con cháu thông minh , học giỏi , lại sinh nhiều người có năng khiếu về nghệ thuật, âm nhạc , hội họa. Thủy Suy thì người già phúc thọ phong lưu. Phương thủy Suy thủy lai, thủy khứ đều tốt , miễn nó chảy chậm dãi , uốn khúc là đại cát.
Thơ rằng :
" Suy phương thanh lịch đại thông minh,
Cửa nhà tấp nập người hạ mã,
Phúc lộc bền lâu khách tướng khanh,
Nước tiêu Vượng cục là quý địa.Nước chảy quanh co khách trữ tình.
7/ SAO LIÊM TRINH ( BỆNH - TỬ ).
Thủy Bệnh - Tử chảy đến Minh đường - Sao Liêm trinh chiếu xạ Huyệt vị. Chủ tai họa , binh đao , bệnh tật triền miên , gia nghiệp suy bại , hao tán . Nếu 2 phương Bệnh - Tử mà thủy khứ thì lại tốt đẹp, vạn sự như ý.
Thơ rằng :
" Phương Bệnh , phương Tử thủy triều Minh,
Dẫu có khoa danh cũng chẳng lành.
Liêm trinh chủ quản trường tai họa,
Thuốc độc hại người , nạn đao binh.
Thay vợ đổi chồng thêm cố tật,
Đọa thai, tật ách , khổ điêu linh.
Gia tài phá tán sinh nhân yểu,
Gẫy gốc, nhuốc nhen cực thân hình ".
8/ SAO PHÁ QUÂN ( MỘ ).
Thủy ở phương Mộ chảy đến Minh đường , sao Phá quân chiếu xạ Huyệt vị . Chủ gia nghiệp lụn bại, mang công mắc nợ , gia đình dù có nhân đinh đông đúc , cuối cùng cũng tuyệt tự. THủy Mộ khố mà chảy đi , nếu chậm rãi mà uốn lượn thì thành danh gia vọng tộc.
" Nước từ cung Mộ tháo chảy đi,
Phát văn, phát võ, pháyt quyền uy.
Nước chứa ao hồ giàu muôn vạn,
Nước đi thẳng tuột chẳng nên gì ,
Mang công mắc nợ nghèo xơ xác,
Tù tội, lưu đầy bị khinh khi " .
9/ SAO LỘC TỒN ( TUYỆT - THAI ).
Thủy Tuyệt - Thai chảy đến Minh đường - Sao Lộc tồn chiếu xạ Huyệt vị. Chủ gia đình đời sau con cháu sẽ tuyệt tự , thai sản khó khăn, hữu sinh vô dưỡng . nếu có sinh con thì cha con, vợ chồng cũng tử biệt , sinh ly . Nếu phương này mà thủy lai ( đến ) mạnh mẽ thì con cái trong nhà sẽ hư hỏng , dâm loạn . Phương này chỉ có thủy chảy đi mới hợp cách.
" Thai - Tuyệt nước lai hại không con,
Có đẻ không nuôi phải đem chôn,
Vợ chồng ly tán , người đối mặt,
Nước cả, đàn bà loạn dâm bôn.
Nước nhỏ tự tình ngầm ngang trái,
Nước đi hợp pháp lại vuông tròn ".
Nguồn: http://phongthuyhanh.com/?x=203%2Fphong-thuy-luan%2Fthuy-phap-truong-sinh-1
Ý NGHĨA CỦA CÁC SAO VÒNG TRƯỜNG SINH.
1/ SAO THAM LANG ( SINH - DƯỠNG ).
Thủy Dưỡng - Sinh chảy đến Minh đường , sao Tham Lang chiếu xạ Huyệt vị. Chủ sinh con cháu nổi danh văn tài, nhân đinh đông đúc, tính nết hiền lương. Dòng trưởng đời con cháu phát phúc phát quý, trung hậu, hiếu lễ. Nếu Lai Thủy càng uồn lượn quanh co chảy tới thì cành vinh hoa phú quý trường cửu và trong họ có nhiều người giữ chức vụ to trong triều đình. Còn nếu Thủy hiền hòa bao bọc thì phát Phúc và Lộc. Nếu thủy Dưỡng - Sinh chảy đi hoặc xối thẳng vào Huyệt vị thì sẽ bị phá tuyệt, vợ và con dâu sớm thành cô quả.
Có thơ rằng :
" Đệ nhất Dưỡng , Sinh thủy đáo đường ,
Tham Lang tinh chiếu hiển văn chương,
Trưởng vị , nhị tôn đa phú quý,
Nhân đinh xương chức tính trung lương.
Thủy cuốn chi huyền quan chức trọng,
Thủy tiểu loan hoàn phú thọ trường.
Dưỡng , Sinh lưu phá trung tu huyệt,
Thiếu niên, quả phụ thư không phòng".
Dịch như sau :
" Dưỡng , Sinh đem nước lại Minh đường,
Con cháu khoa danh phát văn chương.
Ngành trưởng giầu sang cao chức trọng,
Trong họ nhiều người tính trung lương.
Nước cuộn lượn về quyền chức trọng,
Nước tiêu Sinh , Dưỡng lắm tai ương.
Phá tán điền trang tha hương xứ,
Trai cô , gái góa tủi sầu thương ".
2/ SAO VĂN KHÚC ( MỘC DỤC - ĐÀO HOA ).
Thủy Mộc dục chảy đến Minh đường , sao Văn khúc chiếu xạ Huyệt vị là Đào hoa sát Thủy chủ dâm đãng. Con gái trong nhà dâm loạn không thể quản lý được . Hoặc bỏ nhà theo trai hoặc vì tình mà gieo mình xuống sông , xuống giếng tự vẫn . Gia sản lụn bại, tông tộc suy đồi , đầy dẫy tai họa bệnh tật . Nếu Mộc dục thủy từ cung Tý - Ngọ chảy đến thì ruộng vườn bán sạch . Nếu Mộc dục thủy từ phương Mão - Dậu chảy đến thì sinh người ham mê cờ bạc , rượu chè, nghiện hút , tiêu xài hoang phí dẫn đến ngục đường.
Thơ rằng :
" Mộc dục thủy lai phạm Đào hoa,
Nữ tử dâm loạn bất do tha,
Đầu hà tự ải tùy nhân tẩu,
Huyết bệnh tự tai phá bại gia.
Tý - Ngọ thủy lai điền nghiệp tận.
Mão - Dậu lưu lai hiếu tham hoa.
Nhược hoàn lưu hóa sinh thần vị,
Trụy thai dâm thanh đới quả già ".
Dịch :
" Mộc dục nước về phạm Đào hoa,
Gái trai dẫm đãng loạn trong nhà,
Thắt cổ, trầm mình, người quyến rũ.
Tý - Ngọ nước về nhà, ruộng hết.
Huyết bệnh lại thêm khổ quan nha.Mão - Dậu rượu chè, đổ bác sa.
Hút sách tiêu sài nhiều bệnh tật,
Tụng đình , hình ngục khổ can qua.
Nếu bát diệu Thủy pháp Minh đường có các sao Tham Lang, Cự Môn, Vũ Khúc. Phụ Bật thì có thể dùng nước chảy tới từ phương Mộc dục.
3/ SAO VĂN KHÚC ( QUAN ĐỚI ).
Thủy Quan đới chảy đến Minh đường , sao Văn khúc chiếu xạ Huyệt vị . Chủ con cháu thông minh , trí tuệ hơn người , phong lưu. Trong nhà xuất hiện thần đồng , 7 tuổi đã uyên bác . Nếu Quan đới thủy mà chảy tuột đi thì thiếu niên chết yểu , nữ nhân bị tổn hại.
Thơ rằng :
" Quan đới thủy lai , nhân thông tuệ,
Vi chủ phong lưu thích bạc bài.
Thất niên thơ ấu hay thơ phú
Văn chương bác sĩ vạn nhân khoa ,
Thủy phần lưu khứ tối vị hung,
Cánh cổn thâm khuê kiều thái nữ.
Thử cương bình súc hóa vi cát "
Dịch :
" Quan đới nước triều học thông minh,
Rượu , chè , cờ bạc mãi phong tình.
Thần đồng nổi tiếng thời thơ ấu,
Phú lục văn thơ vượng thịnh danh.
Văn khúc nước đi con thứ hại,
Sát hại biết bao trẻ sơ sinh.
Ai oán phòng không thương kiều nữ.
Quan đới nước lại tốt cát lành.
4/ SAO VŨ KHÚC ( LÂM QUAN ).
Thủy Lâm quan chảy đến Minh đường - Sao Vũ khúc chiếu xạ Huyệt vị. Chủ đại cát đại lợi. Thiếu niên đã sớm thi đỗ làm quan , gặp nhiều may mắn, thăng quan tiến chức . Tối kị Lâm quan thủy chảy đi , làm cho con cái đang thành đạt chết yểu, con dâu , con gái sớm để tang chồng, gia nghiệp lụn bại.
Thơ rằng :
" Lâm quan vị thượng thủy tư tich,
Lộc mã triều nguyên hỷ khí tân.
Hiền tướng trù mưu tá thánh nhân,
Tối kị Lâm quan xuất Thủy khứ.
Thành tài chi tử tạ vong ân,
Tài cốc không hư triệt gốc bần".
Dịch :
" Lâm quan nước triều phúc lộc giăng,
Lộc, Mã triều nguyên lắm sự hay,
Hiển tướng đương phần nhẹ đường mây,
Lâm quan thủy khứ tử tôn yểu,
Gái góa cơ cùng khóc đêm ngày ".
5/ SAO VŨ KHÚC ( ĐẾ VƯỢNG ).
Thủy Đế vượng chảy đến Minh đường - Sao Vũ khúc chiếu xạ Huyệt vị. Chủ tài lộc tốc phát , con cháu nhiều người làm quan to , tước cao , lộc hậu , uy danh lừng lẫy , tiền bạc đổ vào nhà như nước . Nhưng Đế vượng thủy tốc phát mà không bền . Nếu lại xung tán thì có giầu như Thạch sùng cũng bị phá sản , lụn bại.
Cổ nhân xưa có nói : " Kẻ tham vinh hoa , phú quý thì bỏ Dưỡng, Trường sinh mà nghênh tiếp Vượng thần . Muốn đời con cháu lâu dài thì bỏ Vượng thần mà nghên tiếp Dưỡng - Trường sinh ".
Thơ rằng :
" Đế vượng triều lai tụ diện tiền,
Nhất đường vượng khí phát trang điền.
Quan cao, tước trọng , uy danh hiển,
Kim cốc phong danh hữu thừa thiên.
Vượng khương lưu khứ căn cơ bạc,
Thực thực cơ hàn quán thượng thiên ".
Dịch :
" Đế vượng nước triều vượng gia tài,
Tước cao, lộc hậu nhất quan giai,
Vàng bạc đầy rương , lúa đầy lẫm,
Đáng sợ nước tù khứ bất lai,
Thạch sùng hào phú cũng vì vậy ,
Giầu xổi rồi mai hết đồ xài ".
6/ SAO CỰ MÔN ( SUY ).
Thủy Suy chảy tới Minh đường - Sao Cự môn chiếu xạ Huyệt vị. Chủ con cháu thông minh , học giỏi , lại sinh nhiều người có năng khiếu về nghệ thuật, âm nhạc , hội họa. Thủy Suy thì người già phúc thọ phong lưu. Phương thủy Suy thủy lai, thủy khứ đều tốt , miễn nó chảy chậm dãi , uốn khúc là đại cát.
Thơ rằng :
" Suy phương thanh lịch đại thông minh,
Cửa nhà tấp nập người hạ mã,
Phúc lộc bền lâu khách tướng khanh,
Nước tiêu Vượng cục là quý địa.Nước chảy quanh co khách trữ tình.
7/ SAO LIÊM TRINH ( BỆNH - TỬ ).
Thủy Bệnh - Tử chảy đến Minh đường - Sao Liêm trinh chiếu xạ Huyệt vị. Chủ tai họa , binh đao , bệnh tật triền miên , gia nghiệp suy bại , hao tán . Nếu 2 phương Bệnh - Tử mà thủy khứ thì lại tốt đẹp, vạn sự như ý.
Thơ rằng :
" Phương Bệnh , phương Tử thủy triều Minh,
Dẫu có khoa danh cũng chẳng lành.
Liêm trinh chủ quản trường tai họa,
Thuốc độc hại người , nạn đao binh.
Thay vợ đổi chồng thêm cố tật,
Đọa thai, tật ách , khổ điêu linh.
Gia tài phá tán sinh nhân yểu,
Gẫy gốc, nhuốc nhen cực thân hình ".
8/ SAO PHÁ QUÂN ( MỘ ).
Thủy ở phương Mộ chảy đến Minh đường , sao Phá quân chiếu xạ Huyệt vị . Chủ gia nghiệp lụn bại, mang công mắc nợ , gia đình dù có nhân đinh đông đúc , cuối cùng cũng tuyệt tự. THủy Mộ khố mà chảy đi , nếu chậm rãi mà uốn lượn thì thành danh gia vọng tộc.
" Nước từ cung Mộ tháo chảy đi,
Phát văn, phát võ, pháyt quyền uy.
Nước chứa ao hồ giàu muôn vạn,
Nước đi thẳng tuột chẳng nên gì ,
Mang công mắc nợ nghèo xơ xác,
Tù tội, lưu đầy bị khinh khi " .
9/ SAO LỘC TỒN ( TUYỆT - THAI ).
Thủy Tuyệt - Thai chảy đến Minh đường - Sao Lộc tồn chiếu xạ Huyệt vị. Chủ gia đình đời sau con cháu sẽ tuyệt tự , thai sản khó khăn, hữu sinh vô dưỡng . nếu có sinh con thì cha con, vợ chồng cũng tử biệt , sinh ly . Nếu phương này mà thủy lai ( đến ) mạnh mẽ thì con cái trong nhà sẽ hư hỏng , dâm loạn . Phương này chỉ có thủy chảy đi mới hợp cách.
" Thai - Tuyệt nước lai hại không con,
Có đẻ không nuôi phải đem chôn,
Vợ chồng ly tán , người đối mặt,
Nước cả, đàn bà loạn dâm bôn.
Nước nhỏ tự tình ngầm ngang trái,
Nước đi hợp pháp lại vuông tròn ".
Nguồn: http://phongthuyhanh.com/?x=203%2Fphong-thuy-luan%2Fthuy-phap-truong-sinh-1
Thứ Năm, 28 tháng 1, 2016
ÂM TRẠCH (cóp nhặt) !!
Phúc họa với hình và thế đất huyệt mộ
Cái gọi là “hình” trong phong thủy chính là hình dạng của núi kết huyệt. Hình là điều kiện quan trọng nhất để tụ khí. Khí vận hành (di chuyển) theo thế núi, thế đất vì vậy bị ngưng tụ lại. Nơi ngưng tụ được linh khí như thế gọi là chân huyệt.
Cuốn Táng Kinh viết: “Hình ngăn khí tụ, hóa sinh vạn vật là đất thượng đẳng”. Nếu không có hình tốt tức thế đất không ngăn được khí. Khí không tụ lại được thì an táng vô nghĩa. Hình có to nhỏ, cao thấp, sấp ngửa, béo gầy, cân lệch.
Các nhà phong thủy chia hình thế đất thành 6 kiểu: tròn, bẹt, thẳng, cong, vuông, lõm.
Yêu cầu hình thế đất: Thứ nhất là phải ngăn được khí (khí tụ); thứ 2 là phải tàng (giấu), đất lộ, khí tán theo gió; thứ 3 phải vuông cân, nếu đất nghiêng lệch khí uế sẽ phát sinh; thứ 4 là thế đất phải có hình vòng cung, khí tụ và lưu thông trong huyệt, đất ẩm.
Thế đất cát thì huyệt sẽ cát; huyệt cát thì nhân sẽ cát. Thông thường, an táng ở trên thế đất phình, cheo leo, lộ lồi, nham nhở, tản mạn, tàn tạ đều mang lại hung họa khôn lường cho đời sau.
Táng Kinh viết rất cụ thể như sau:
- Thế đất có bình phong (đằng sau huyệt mộ có đất hoặc núi cao như bức bình phong để dựa, được che chắn) chôn đúng phép, vương hầu nổi lên.
- Thế đất như tổ yến (tròn, vuông, cân đối) chôn đúng cách, được chia đất phong.
- Thế đất như rìu kép (tròn, vuông, cân đối, phẳng phiu) mộ huyệt có thể giàu có.
- Thế đất lởm chởm (đất không có hình thế), bách sự hỗn loạn.
- Thế đất như loạn y (quần áo bừa bãi), thê thiếp dâm loạn.
- Thế đất như túi rách (chỉ đất, cát, sỏi, phù sa bồi), tai họa liên miên.
- Thế đất như thuyền lật, nữ bệnh nam tù.
- Thế đất ngang lệch (thế đất xiên xẹo, không ra hình thế), con cháu tuyệt tự.
- Thế đất như kiếm nằm (thế đất dài như thanh kiếm), chu di bức hại.
- Thế đất như đao ngửa (thế đất dài như thanh đao), hung họa suốt đời.
Như vậy, sách xưa khẳng định: “Hình thế rõ ràng thì tìm huyệt dễ, không rõ ràng thì tìm huyệt khó khăn”; “Thế đến, hình ngăn gọi là toàn khí. Đất toàn khí khi an táng thì tụ được khí”.
Không những thế, khi chọn đất táng, vai trò của hình và thế cần được coi trọng như nhau. Vì: “Hình và thế thuận là cát, hình và thế nghịch là hung. Thế cát hình hung thì bách phúc không còn, thế hung hình cát thì họa hại vô cùng”.
Thập quý: 10 loại địa hình tốt theo phong thủy
Thập quý (10 loại địa hình quý) là một trong 10 bí quyết của Cửu Ca. 10 kiểu địa hình đẹp về long huyệt, sa, thủy được coi là 10 kiểu đất sang để xây nhà, xây mộ và con cháu sẽ được giàu có, đó là:
1. Nhất quý, Thanh Long song ủng: Thanh long chỉ gò Thanh Long có gò Tùy Long cùng ôm huyệt mộ.
2. Nhị quý, Long Hổ cao tủng: Long Hổ, chỉ gò Thanh Long và gò Bạch Hổ; cao tủng tức là có thế cao nhưng không cao hơn gò huyệt mộ.
3. Tam quý, Hằng Nga thanh tú: Hằng Nga chỉ gò huyệt mộ (núi huyệt mộ); thanh tú nghĩa là đẹp.
4. Tứ quý, cờ trống viên phong: Cờ trống chỉ các ngọn núi có long mạch; viên phong có nghĩa là đầy đặn.
5. Ngũ quý, nghiên tiền bút giá: Nghiên tiền chỉ Án Sơn, Triều Sơn; thanh tú là chỉ 2 ngọn núi trên đẹp và cao như giá bút.
6. Lục quý, quan lộc phúc chung: Quan lộc là lộc quan; phúc chung là chỉ huyệt như chuông úp.
7. Thất quý, viên sinh Bạch Hổ: chỉ gò Bạch Hổ thuần nhu.
8. Bát quý, đốn bút Thanh Long: chỉ gò Thanh Long cao đẹp.
9. Cửu quý, bình phong tẩu mã: Bình phong là chỉ núi Huyền Vũ sau huyệt mộ, vuông cao, lớn phẳng; tẩu mã (ngựa phi), huyệt được che chắn.
10. Thập quý, Thủy Khẩu trùng trùng: Thủy Khẩu là chỉ cửa sông; trùng trùng có ý chỉ các dòng sông ôm huyệt mộ.
Thập tiện: 10 loại địa hình xấu
Thập tiện là một trong 10 bí quyết của Cửu Ca về 10 kiểu địa hình xấu, rất kỵ trong việc an táng.
1. Nhất tiện, bát phong xúy huyệt: Bát phong là gió từ 8 hướng thổi vào huyệt làm khí tiêu tán.
2. Nhị tiện, Chu Tước tiêu sách: là gò Chu Tước trước mộ vô tình, không triều bái, không nhảy múa.
3. Tam tiện, Thanh Long phi khứ: chỉ gò Thanh Long không ôm huyệt mộ có thế bay đi.
4. Tứ tiện, Thủy Khẩu phân lưu: nước ở cửa sông chảy đi không bao huyệt mộ.
5. Ngũ tiện, bãi đầu kiều vĩ: Bãi đầu là chỉ các núi không hướng về huyệt mộ; kiều vĩ là cong đuôi, ý chỉ dòng nước chảy đi không bao bọc huyệt mộ.
6. Lục tiện, tiền hậu xuyên phong: Tiền hậu chỉ gò Chu Tước, gò Huyền Vũ nhỏ và thấp hoặc không có gió thổi tản khí huyệt mộ.
7. Thất tiện, sơn phi thủy tẩu: chỉ núi không triều, nước không ôm huyệt.
8. Bát tiện, tả hữu giai không: không có gò Thanh Long, gò Bạch Hổ.
9. Cửu tiện, sơn băng thủy liệt: núi đổ, nước cạn.
10. Thập tiện, hữu chủ vô khách: Hữu chủ là có huyệt mộ; vô khách là không có án sơn, triều sơn.
28 điều kiện về huyệt mộ trong phong thủy học
“28 yếu” là một trong 10 bí quyết của Cửu Ca. Đó là 28 yêu cầu về long, huyệt, sa, thủy của huyệt mộ bao gồm:
1. Long phải sinh vượng nghĩa là long mạch phải dài, khí đến thì huyệt kết.
2. Long mạch phải nhấp nhô nghĩa là khí đi theo triền núi ở trong đất đến huyệt mộ, nếu không lên xuống sẽ bị đứt mạch khí và không đến được huyệt mộ.
3. Mạch phải nhỏ vì mạch lớn khí sẽ bị tản.
4. Huyệt phải tàng thì mới giữ được khí mạch, tàng phong.
5. Lai long phải gặp huyệt cát có nghĩa là long mạch phải gặp huyệt tàng phong đắc thủy thì huyệt mới kết phát.
6. Đường phải rộng, sáng, phẳng có nghĩa là minh đường phải rộng, sáng, phẳng thì mới giữ được khí, gió, thủy.
7. Sa phải sáng có nghĩa là gò Thanh Long, gò Bạch Hổ phải rõ ràng, sáng sủa.
8. Thủy phải đọng nghĩa là nước phải ngưng đọng, bao bọc huyệt mộ.
9. Sơn phải bao nghĩa là núi bao quanh huyệt mộ. Câu này có ý chỉ triều mộ và gò hướng mộ.
10. Thủy phải ôm là dòng nước chảy phải ôm huyệt mộ.
11. Long phải miên là gò Thanh Long “ngủ”, ý nói gò Thanh Long phải nhu thuận.
12. Hổ phải thấp có nghĩa là gò Bạch Hổ không được cao hơn gò huyệt.
13. Án phải gần có nghĩa Án Sơn phải ở gần huyệt mộ.
14. Thủy phải tĩnh tức là dòng nước phải trong, tĩnh lặng, không được chảy ồ ạt.
15. Tiền có quan ý chỉ trước mộ phải có tinh quan (gò nhỏ).
16. Phòng có thần là chỉ sau mộ phải có quỷ tinh (gò nhỏ).
17. Hậu có chẩm lạc nghĩa là sau mộ phải có gò nhỏ như chiếc gối.
18. Hai bên có giáp chiếu nghĩa là 2 bên mộ phải có gò nhỏ như 2 tai mộ để bảo vệ mộ.
19. Thủy phải giao là chỉ các dòng nước phải giao nhau và bao bọc lấy huyệt mộ.
20. Thủy Khẩu phải có gò che chắn là nói cửa sông phải như cái hom, nước vào không bị tản đi.
21. Huyệt phải tàng phong là chỉ huyệt phải được núi, gò bao bọc và có gió tụ ở bên trên huyệt.
22. Huyệt phải tụ khí là nói huyệt phải có núi, sông, gò bao bọc và có khí tụ.
23. Bát quốc không được khuyết có nghĩa là 8 hướng đều có núi và gò che chắn.
24. La Thành không được tản là chỉ các núi bao bọc như la thành không được tản mát.
25. Núi không được lõm chỉ các núi có long mạch và không được lõm, trũng.
26. Thủy không được phản cung ý chỉ dòng nước không được quay lưng vào huyệt mộ mà phải chảy bao quanh mộ.
27. Đường phải vuông vắn là chỉ minh đường phải vuông vắn, rộng lớn.
28. Núi phải cao là chỉ các núi như Thái Tổ Sơn, Thiếu Tổ Sơn, Phụ Mẫu Sơn, gò mộ, Án Sơn, Triều Sơn, gò Thanh Long, gò Bạch Hổ phải cao.
26 địa hình an táng đáng sợ trong phong thủy học
26 địa hình đáng sợ là một trong 10 bí quyết của Cửu Ca, là những địa hình đại kỵ trong việc an táng, bao gồm:
1. Long sợ hung ngang: Long mạch sợ hung hãn, ngang ngược.
2. Huyệt sợ khô hàn: Huyệt mộ sợ nhất u ám, khô lạnh.
3. Sa sợ phản bối: Gò xung quanh mộ quay lưng về phía mộ.
4. Thủy sợ phản khiêu: Nước chảy quanh lưng vào mộ, hay còn gọi là “kim thành phản cung”.
5. Huyệt sợ gió thổi: Huyệt mộ không có gò núi che chắn.
6. Núi sợ khô phá: Núi khô cằn, vỡ, lõm.
7. Thủy sợ khiên ngưu trực xạ: Dòng nước chảy xối xả thẳng vào huyệt.
8. Sa sợ tống thủy định soán: Gò xung quanh kỵ, nước chảy đi không về.
9. Thủy sợ chảy xiết: Nước phải chảy chậm, không được chảy xiết làm hỏng huyệt mộ.
10. Đối sơn sợ ưỡn ngực: Án Sơn, Triều Sơn không hướng về huyệt mộ.
11. Long Hổ sợ áp huyệt: gò Thanh long, gò Bạch Hổ quá lớn sẽ át gò huyệt.
12. Đường sợ phản tà: Minh đường không được méo, lệch, nghiêng.
13. Trước sợ giếng khô, sau sợ nhà hoang.
14. Huyệt sợ u ám.
15. Núi sợ Bát sát: Núi kỵ nằm ở phương sát khí trong Bát Quái.
16. Thủy sợ Bát sát: Dòng nước thì kỵ ở phương sát khí trong Bát Quái.
17. Núi sợ tọa Ngũ Quỷ: Núi sợ ở phương ngũ quỷ trong Bát Quái.
18. Thủy cục sợ Hoàng Tuyền: Dòng nước kỵ ở phương sát khí.
19. Long Hổ sợ đoạn yêu: Gò Thanh Long, gò Bạch Hổ vẹo lưng.
20. Minh đường sợ hoang dã, huyệt tiền sợ đọa thai: Kỵ đất bỏ hoang trước mộ, và gò đất trước mộ bị lõm khuyết.
21. Lai long sợ thừa sát; cao sợ thương thổ ngưu; thấp sợ thoát khí mạch: Long mạch (mạch khí) từ xa tới sợ gặp phương vị sát khí ở huyệt mộ; chạy trên cao sợ làm hỏng huyệt mộ; chạy thấp sẽ thoát khí.
22. Mạch sợ lộ thai, gió sợ bạt đỉnh: Long mạch sợ gò đất lõm khuyết (lộ thai), gió to sẽ làm đất đỉnh mộ sụt lở, tan rã nên kỵ gió.
23. Thủy sợ lâm đầu, thủy sợ cắt chân: Dòng nước kỵ xối vào đầu mộ, chảy vào đuôi mộ.
24. Huyệt mộ sợ thừa phong, Long sợ Hổ áp: Huyệt mộ kỵ gió thốc, gò Thanh Long kỵ gò Bạch Hổ vươn dài lấn át.
25. Long sợ khởi lãng, Hổ sợ soán đường: Kỵ gò Thanh Long uốn lượn, kỵ gò Bạch Hổ xâm phạm minh đường.
26. La bàn sợ song kim, lập huyệt thừa khí sợ Hỏa khanh: Sử dụng la bàn sợ mệnh của mình và người âm (người trong mộ) mộ kết đều là mệnh Kim, tượng hung; tướng mộ xung khắc 12 con giáp trong ngũ hành.
Ngũ bất táng: 5 loại núi kỵ đặt mộ
Ngũ bất táng còn gọi là ngũ hại, chỉ 5 loại núi không tụ khí, an táng sẽ bất lợi. Quách Phác trong sách Táng Thư viết: “Ngũ hại bất thân” ý chỉ 5 loại núi không nên an táng gồm: đồng sơn, đoạn sơn, thạch sơn, độc sơn, quá sơn.
1. Đồng sơn: Màu đất khô cháy, cây cỏ không mọc được, núi trọc. Núi như vậy thì đất khô, mạch kiệt, không thể sinh khí, vì vậy không nên chôn cất.
2. Đoạn sơn: Chỉ thế núi gãy ngang, sinh khí đi theo mạch đất; thế mạch gãy, sinh khí đứt đoạn, vì vậy không nên chôn cất.
3. Thạch sơn (núi đá): Ý nói đất kết huyệt không thể là vách núi cheo leo, hoặc núi đá nhô nổi. Đây là nơi oán khí trong núi đá sinh ra, đất nhiều sát khí vì vậy không nên an táng. Tuy nhiên, nếu chất đá mềm, vân đá ấm mượt, màu sắc tươi lại là cát địa.
4. Quá sơn: Thế núi không dừng, giống như lao đi, khí cũng giống như là khách ra đi do vậy mà sinh khí không còn. Những nơi như thế không nên an táng.
5. Độc sơn: Mạch long cô độc, núi không có thế bao bọc huyệt mộ, các dòng nước không tụ, không có núi Thiếu Tổ, núi Thái Tổ, núi Phụ Mẫu. Nơi như thế thì chỉ nên xây đền chùa, miếu mạo và không nên an táng.
Bát phong hung dữ - 8 loại gió bất lợi đối với huyệt mộ
Theo khái niệm âm dương, thì gió (phong) bao gồm 2 loại: gió từ đỉnh núi thổi xuống gọi là gió dương, gió từ khe núi thổi lên gọi là gió âm.
Ở vùng đồng bằng thì huyệt không sợ gió. Các loại gió thổi từ Đông sang Tây, từ Nam lên Bắc là gió ấm, gọi là gió dương thì không cần đề phòng. Các loại gió hướng Tây, hướng Bắc gọi là gió âm thường lạnh, vì vậy huyệt nên có Án Sơn - núi che phía trước, nếu không xương cốt trong mộ sẽ bị lạnh, gia chủ sẽ khuynh gia bại sản.
Theo sách Địa lý giảm giả lục: “Gió âm sẽ làm tản sinh khí. Vì vậy, nếu gió này thổi trực xạ (thổi thẳng) vào mộ là hung (xấu). Ở đồng bằng và vùng sông, biển mênh mông, an táng mộ không cần núi gò cao che chắn gió dương, vì gió này không kỵ, không có sát khí.”
Long khí không thông gió sẽ vượng, dương trạch (nhà ở) nên đóng cửa sổ vì nếu gió dữ thổi, cửa không đóng, khí lạnh tràn vào nhà sẽ hung. Nếu triều án sơn lõm khuyết bị gió thổi gọi là trực xạ.
Theo sách Địa lý 88 hướng chân quyết, có 8 loại địa hình xấu không vì không che được 8 loại gió hung dữ (bát phong):
1. Tiền phong: Minh đường (khoảng đất trước huyệt mộ) bị nghiêng lệch, Án Sơn (ngọn núi che chắn trước mộ) lõm khuyết, bị gió âm (gió Tây Bắc) trực xạ, không thể tụ khí chủ về sự bần hàn, con cháu phải chịu cuộc sống long đong, xa quê.
2. Hậu phong: Không có Phụ Mẫu Sơn (núi che chắn phía sau mộ), gió thổi lưng huyệt thì chủ về sự khốn cùng, đoản mệnh...
3. Tả phong: Gò Thanh Long thấp bé, không cản nổi gió tả phong thì gia chủ vong, nữ chủ nhân quả phụ.
4. Hữu phong: Gò Bạch Hổ thấp bé, không cản nổi gió hữu phong thì nữ gia chủ vong, dễ tuyệt tự.
5 - 6. Lưỡng mày phong: Gió thổi vào chỗ giao nhau dưới Chủ Sơn và gò Thanh Long hoặc gò Bạch Hổ bị lõm khuyết thì gia chủ vong, tự tuyệt.
7 - 8. Đuôi Long Hổ phong: Đuôi Long Hổ thấp, gió thổi qua chỗ đó gọi là đuôi Long Hổ phong, là đại hung. Chủ nhân dễ bị khuynh gia bại sản. Nếu gió từ hướng (Cấn) Đông Bắc thì rất dữ.
Tuy nhiên, nếu huyệt mộ được Sa và Thủy bao bọc tầng tầng, lớp lớp thì sẽ không lo 8 loại gió hung nói trên.
Nguồn: http://lysophuongdong.vn/threads/xin-cac-bac-tien-boi-chia-se-kinh-nghiem-cung-nhu-sach-ve-tang-thu.220/
Cái gọi là “hình” trong phong thủy chính là hình dạng của núi kết huyệt. Hình là điều kiện quan trọng nhất để tụ khí. Khí vận hành (di chuyển) theo thế núi, thế đất vì vậy bị ngưng tụ lại. Nơi ngưng tụ được linh khí như thế gọi là chân huyệt.
Cuốn Táng Kinh viết: “Hình ngăn khí tụ, hóa sinh vạn vật là đất thượng đẳng”. Nếu không có hình tốt tức thế đất không ngăn được khí. Khí không tụ lại được thì an táng vô nghĩa. Hình có to nhỏ, cao thấp, sấp ngửa, béo gầy, cân lệch.
Các nhà phong thủy chia hình thế đất thành 6 kiểu: tròn, bẹt, thẳng, cong, vuông, lõm.
Yêu cầu hình thế đất: Thứ nhất là phải ngăn được khí (khí tụ); thứ 2 là phải tàng (giấu), đất lộ, khí tán theo gió; thứ 3 phải vuông cân, nếu đất nghiêng lệch khí uế sẽ phát sinh; thứ 4 là thế đất phải có hình vòng cung, khí tụ và lưu thông trong huyệt, đất ẩm.
Thế đất cát thì huyệt sẽ cát; huyệt cát thì nhân sẽ cát. Thông thường, an táng ở trên thế đất phình, cheo leo, lộ lồi, nham nhở, tản mạn, tàn tạ đều mang lại hung họa khôn lường cho đời sau.
Táng Kinh viết rất cụ thể như sau:
- Thế đất có bình phong (đằng sau huyệt mộ có đất hoặc núi cao như bức bình phong để dựa, được che chắn) chôn đúng phép, vương hầu nổi lên.
- Thế đất như tổ yến (tròn, vuông, cân đối) chôn đúng cách, được chia đất phong.
- Thế đất như rìu kép (tròn, vuông, cân đối, phẳng phiu) mộ huyệt có thể giàu có.
- Thế đất lởm chởm (đất không có hình thế), bách sự hỗn loạn.
- Thế đất như loạn y (quần áo bừa bãi), thê thiếp dâm loạn.
- Thế đất như túi rách (chỉ đất, cát, sỏi, phù sa bồi), tai họa liên miên.
- Thế đất như thuyền lật, nữ bệnh nam tù.
- Thế đất ngang lệch (thế đất xiên xẹo, không ra hình thế), con cháu tuyệt tự.
- Thế đất như kiếm nằm (thế đất dài như thanh kiếm), chu di bức hại.
- Thế đất như đao ngửa (thế đất dài như thanh đao), hung họa suốt đời.
Như vậy, sách xưa khẳng định: “Hình thế rõ ràng thì tìm huyệt dễ, không rõ ràng thì tìm huyệt khó khăn”; “Thế đến, hình ngăn gọi là toàn khí. Đất toàn khí khi an táng thì tụ được khí”.
Không những thế, khi chọn đất táng, vai trò của hình và thế cần được coi trọng như nhau. Vì: “Hình và thế thuận là cát, hình và thế nghịch là hung. Thế cát hình hung thì bách phúc không còn, thế hung hình cát thì họa hại vô cùng”.
Thập quý: 10 loại địa hình tốt theo phong thủy
Thập quý (10 loại địa hình quý) là một trong 10 bí quyết của Cửu Ca. 10 kiểu địa hình đẹp về long huyệt, sa, thủy được coi là 10 kiểu đất sang để xây nhà, xây mộ và con cháu sẽ được giàu có, đó là:
1. Nhất quý, Thanh Long song ủng: Thanh long chỉ gò Thanh Long có gò Tùy Long cùng ôm huyệt mộ.
2. Nhị quý, Long Hổ cao tủng: Long Hổ, chỉ gò Thanh Long và gò Bạch Hổ; cao tủng tức là có thế cao nhưng không cao hơn gò huyệt mộ.
3. Tam quý, Hằng Nga thanh tú: Hằng Nga chỉ gò huyệt mộ (núi huyệt mộ); thanh tú nghĩa là đẹp.
4. Tứ quý, cờ trống viên phong: Cờ trống chỉ các ngọn núi có long mạch; viên phong có nghĩa là đầy đặn.
5. Ngũ quý, nghiên tiền bút giá: Nghiên tiền chỉ Án Sơn, Triều Sơn; thanh tú là chỉ 2 ngọn núi trên đẹp và cao như giá bút.
6. Lục quý, quan lộc phúc chung: Quan lộc là lộc quan; phúc chung là chỉ huyệt như chuông úp.
7. Thất quý, viên sinh Bạch Hổ: chỉ gò Bạch Hổ thuần nhu.
8. Bát quý, đốn bút Thanh Long: chỉ gò Thanh Long cao đẹp.
9. Cửu quý, bình phong tẩu mã: Bình phong là chỉ núi Huyền Vũ sau huyệt mộ, vuông cao, lớn phẳng; tẩu mã (ngựa phi), huyệt được che chắn.
10. Thập quý, Thủy Khẩu trùng trùng: Thủy Khẩu là chỉ cửa sông; trùng trùng có ý chỉ các dòng sông ôm huyệt mộ.
Thập tiện: 10 loại địa hình xấu
Thập tiện là một trong 10 bí quyết của Cửu Ca về 10 kiểu địa hình xấu, rất kỵ trong việc an táng.
1. Nhất tiện, bát phong xúy huyệt: Bát phong là gió từ 8 hướng thổi vào huyệt làm khí tiêu tán.
2. Nhị tiện, Chu Tước tiêu sách: là gò Chu Tước trước mộ vô tình, không triều bái, không nhảy múa.
3. Tam tiện, Thanh Long phi khứ: chỉ gò Thanh Long không ôm huyệt mộ có thế bay đi.
4. Tứ tiện, Thủy Khẩu phân lưu: nước ở cửa sông chảy đi không bao huyệt mộ.
5. Ngũ tiện, bãi đầu kiều vĩ: Bãi đầu là chỉ các núi không hướng về huyệt mộ; kiều vĩ là cong đuôi, ý chỉ dòng nước chảy đi không bao bọc huyệt mộ.
6. Lục tiện, tiền hậu xuyên phong: Tiền hậu chỉ gò Chu Tước, gò Huyền Vũ nhỏ và thấp hoặc không có gió thổi tản khí huyệt mộ.
7. Thất tiện, sơn phi thủy tẩu: chỉ núi không triều, nước không ôm huyệt.
8. Bát tiện, tả hữu giai không: không có gò Thanh Long, gò Bạch Hổ.
9. Cửu tiện, sơn băng thủy liệt: núi đổ, nước cạn.
10. Thập tiện, hữu chủ vô khách: Hữu chủ là có huyệt mộ; vô khách là không có án sơn, triều sơn.
28 điều kiện về huyệt mộ trong phong thủy học
“28 yếu” là một trong 10 bí quyết của Cửu Ca. Đó là 28 yêu cầu về long, huyệt, sa, thủy của huyệt mộ bao gồm:
1. Long phải sinh vượng nghĩa là long mạch phải dài, khí đến thì huyệt kết.
2. Long mạch phải nhấp nhô nghĩa là khí đi theo triền núi ở trong đất đến huyệt mộ, nếu không lên xuống sẽ bị đứt mạch khí và không đến được huyệt mộ.
3. Mạch phải nhỏ vì mạch lớn khí sẽ bị tản.
4. Huyệt phải tàng thì mới giữ được khí mạch, tàng phong.
5. Lai long phải gặp huyệt cát có nghĩa là long mạch phải gặp huyệt tàng phong đắc thủy thì huyệt mới kết phát.
6. Đường phải rộng, sáng, phẳng có nghĩa là minh đường phải rộng, sáng, phẳng thì mới giữ được khí, gió, thủy.
7. Sa phải sáng có nghĩa là gò Thanh Long, gò Bạch Hổ phải rõ ràng, sáng sủa.
8. Thủy phải đọng nghĩa là nước phải ngưng đọng, bao bọc huyệt mộ.
9. Sơn phải bao nghĩa là núi bao quanh huyệt mộ. Câu này có ý chỉ triều mộ và gò hướng mộ.
10. Thủy phải ôm là dòng nước chảy phải ôm huyệt mộ.
11. Long phải miên là gò Thanh Long “ngủ”, ý nói gò Thanh Long phải nhu thuận.
12. Hổ phải thấp có nghĩa là gò Bạch Hổ không được cao hơn gò huyệt.
13. Án phải gần có nghĩa Án Sơn phải ở gần huyệt mộ.
14. Thủy phải tĩnh tức là dòng nước phải trong, tĩnh lặng, không được chảy ồ ạt.
15. Tiền có quan ý chỉ trước mộ phải có tinh quan (gò nhỏ).
16. Phòng có thần là chỉ sau mộ phải có quỷ tinh (gò nhỏ).
17. Hậu có chẩm lạc nghĩa là sau mộ phải có gò nhỏ như chiếc gối.
18. Hai bên có giáp chiếu nghĩa là 2 bên mộ phải có gò nhỏ như 2 tai mộ để bảo vệ mộ.
19. Thủy phải giao là chỉ các dòng nước phải giao nhau và bao bọc lấy huyệt mộ.
20. Thủy Khẩu phải có gò che chắn là nói cửa sông phải như cái hom, nước vào không bị tản đi.
21. Huyệt phải tàng phong là chỉ huyệt phải được núi, gò bao bọc và có gió tụ ở bên trên huyệt.
22. Huyệt phải tụ khí là nói huyệt phải có núi, sông, gò bao bọc và có khí tụ.
23. Bát quốc không được khuyết có nghĩa là 8 hướng đều có núi và gò che chắn.
24. La Thành không được tản là chỉ các núi bao bọc như la thành không được tản mát.
25. Núi không được lõm chỉ các núi có long mạch và không được lõm, trũng.
26. Thủy không được phản cung ý chỉ dòng nước không được quay lưng vào huyệt mộ mà phải chảy bao quanh mộ.
27. Đường phải vuông vắn là chỉ minh đường phải vuông vắn, rộng lớn.
28. Núi phải cao là chỉ các núi như Thái Tổ Sơn, Thiếu Tổ Sơn, Phụ Mẫu Sơn, gò mộ, Án Sơn, Triều Sơn, gò Thanh Long, gò Bạch Hổ phải cao.
26 địa hình an táng đáng sợ trong phong thủy học
26 địa hình đáng sợ là một trong 10 bí quyết của Cửu Ca, là những địa hình đại kỵ trong việc an táng, bao gồm:
1. Long sợ hung ngang: Long mạch sợ hung hãn, ngang ngược.
2. Huyệt sợ khô hàn: Huyệt mộ sợ nhất u ám, khô lạnh.
3. Sa sợ phản bối: Gò xung quanh mộ quay lưng về phía mộ.
4. Thủy sợ phản khiêu: Nước chảy quanh lưng vào mộ, hay còn gọi là “kim thành phản cung”.
5. Huyệt sợ gió thổi: Huyệt mộ không có gò núi che chắn.
6. Núi sợ khô phá: Núi khô cằn, vỡ, lõm.
7. Thủy sợ khiên ngưu trực xạ: Dòng nước chảy xối xả thẳng vào huyệt.
8. Sa sợ tống thủy định soán: Gò xung quanh kỵ, nước chảy đi không về.
9. Thủy sợ chảy xiết: Nước phải chảy chậm, không được chảy xiết làm hỏng huyệt mộ.
10. Đối sơn sợ ưỡn ngực: Án Sơn, Triều Sơn không hướng về huyệt mộ.
11. Long Hổ sợ áp huyệt: gò Thanh long, gò Bạch Hổ quá lớn sẽ át gò huyệt.
12. Đường sợ phản tà: Minh đường không được méo, lệch, nghiêng.
13. Trước sợ giếng khô, sau sợ nhà hoang.
14. Huyệt sợ u ám.
15. Núi sợ Bát sát: Núi kỵ nằm ở phương sát khí trong Bát Quái.
16. Thủy sợ Bát sát: Dòng nước thì kỵ ở phương sát khí trong Bát Quái.
17. Núi sợ tọa Ngũ Quỷ: Núi sợ ở phương ngũ quỷ trong Bát Quái.
18. Thủy cục sợ Hoàng Tuyền: Dòng nước kỵ ở phương sát khí.
19. Long Hổ sợ đoạn yêu: Gò Thanh Long, gò Bạch Hổ vẹo lưng.
20. Minh đường sợ hoang dã, huyệt tiền sợ đọa thai: Kỵ đất bỏ hoang trước mộ, và gò đất trước mộ bị lõm khuyết.
21. Lai long sợ thừa sát; cao sợ thương thổ ngưu; thấp sợ thoát khí mạch: Long mạch (mạch khí) từ xa tới sợ gặp phương vị sát khí ở huyệt mộ; chạy trên cao sợ làm hỏng huyệt mộ; chạy thấp sẽ thoát khí.
22. Mạch sợ lộ thai, gió sợ bạt đỉnh: Long mạch sợ gò đất lõm khuyết (lộ thai), gió to sẽ làm đất đỉnh mộ sụt lở, tan rã nên kỵ gió.
23. Thủy sợ lâm đầu, thủy sợ cắt chân: Dòng nước kỵ xối vào đầu mộ, chảy vào đuôi mộ.
24. Huyệt mộ sợ thừa phong, Long sợ Hổ áp: Huyệt mộ kỵ gió thốc, gò Thanh Long kỵ gò Bạch Hổ vươn dài lấn át.
25. Long sợ khởi lãng, Hổ sợ soán đường: Kỵ gò Thanh Long uốn lượn, kỵ gò Bạch Hổ xâm phạm minh đường.
26. La bàn sợ song kim, lập huyệt thừa khí sợ Hỏa khanh: Sử dụng la bàn sợ mệnh của mình và người âm (người trong mộ) mộ kết đều là mệnh Kim, tượng hung; tướng mộ xung khắc 12 con giáp trong ngũ hành.
Ngũ bất táng: 5 loại núi kỵ đặt mộ
Ngũ bất táng còn gọi là ngũ hại, chỉ 5 loại núi không tụ khí, an táng sẽ bất lợi. Quách Phác trong sách Táng Thư viết: “Ngũ hại bất thân” ý chỉ 5 loại núi không nên an táng gồm: đồng sơn, đoạn sơn, thạch sơn, độc sơn, quá sơn.
1. Đồng sơn: Màu đất khô cháy, cây cỏ không mọc được, núi trọc. Núi như vậy thì đất khô, mạch kiệt, không thể sinh khí, vì vậy không nên chôn cất.
2. Đoạn sơn: Chỉ thế núi gãy ngang, sinh khí đi theo mạch đất; thế mạch gãy, sinh khí đứt đoạn, vì vậy không nên chôn cất.
3. Thạch sơn (núi đá): Ý nói đất kết huyệt không thể là vách núi cheo leo, hoặc núi đá nhô nổi. Đây là nơi oán khí trong núi đá sinh ra, đất nhiều sát khí vì vậy không nên an táng. Tuy nhiên, nếu chất đá mềm, vân đá ấm mượt, màu sắc tươi lại là cát địa.
4. Quá sơn: Thế núi không dừng, giống như lao đi, khí cũng giống như là khách ra đi do vậy mà sinh khí không còn. Những nơi như thế không nên an táng.
5. Độc sơn: Mạch long cô độc, núi không có thế bao bọc huyệt mộ, các dòng nước không tụ, không có núi Thiếu Tổ, núi Thái Tổ, núi Phụ Mẫu. Nơi như thế thì chỉ nên xây đền chùa, miếu mạo và không nên an táng.
Bát phong hung dữ - 8 loại gió bất lợi đối với huyệt mộ
Theo khái niệm âm dương, thì gió (phong) bao gồm 2 loại: gió từ đỉnh núi thổi xuống gọi là gió dương, gió từ khe núi thổi lên gọi là gió âm.
Ở vùng đồng bằng thì huyệt không sợ gió. Các loại gió thổi từ Đông sang Tây, từ Nam lên Bắc là gió ấm, gọi là gió dương thì không cần đề phòng. Các loại gió hướng Tây, hướng Bắc gọi là gió âm thường lạnh, vì vậy huyệt nên có Án Sơn - núi che phía trước, nếu không xương cốt trong mộ sẽ bị lạnh, gia chủ sẽ khuynh gia bại sản.
Theo sách Địa lý giảm giả lục: “Gió âm sẽ làm tản sinh khí. Vì vậy, nếu gió này thổi trực xạ (thổi thẳng) vào mộ là hung (xấu). Ở đồng bằng và vùng sông, biển mênh mông, an táng mộ không cần núi gò cao che chắn gió dương, vì gió này không kỵ, không có sát khí.”
Long khí không thông gió sẽ vượng, dương trạch (nhà ở) nên đóng cửa sổ vì nếu gió dữ thổi, cửa không đóng, khí lạnh tràn vào nhà sẽ hung. Nếu triều án sơn lõm khuyết bị gió thổi gọi là trực xạ.
Theo sách Địa lý 88 hướng chân quyết, có 8 loại địa hình xấu không vì không che được 8 loại gió hung dữ (bát phong):
1. Tiền phong: Minh đường (khoảng đất trước huyệt mộ) bị nghiêng lệch, Án Sơn (ngọn núi che chắn trước mộ) lõm khuyết, bị gió âm (gió Tây Bắc) trực xạ, không thể tụ khí chủ về sự bần hàn, con cháu phải chịu cuộc sống long đong, xa quê.
2. Hậu phong: Không có Phụ Mẫu Sơn (núi che chắn phía sau mộ), gió thổi lưng huyệt thì chủ về sự khốn cùng, đoản mệnh...
3. Tả phong: Gò Thanh Long thấp bé, không cản nổi gió tả phong thì gia chủ vong, nữ chủ nhân quả phụ.
4. Hữu phong: Gò Bạch Hổ thấp bé, không cản nổi gió hữu phong thì nữ gia chủ vong, dễ tuyệt tự.
5 - 6. Lưỡng mày phong: Gió thổi vào chỗ giao nhau dưới Chủ Sơn và gò Thanh Long hoặc gò Bạch Hổ bị lõm khuyết thì gia chủ vong, tự tuyệt.
7 - 8. Đuôi Long Hổ phong: Đuôi Long Hổ thấp, gió thổi qua chỗ đó gọi là đuôi Long Hổ phong, là đại hung. Chủ nhân dễ bị khuynh gia bại sản. Nếu gió từ hướng (Cấn) Đông Bắc thì rất dữ.
Tuy nhiên, nếu huyệt mộ được Sa và Thủy bao bọc tầng tầng, lớp lớp thì sẽ không lo 8 loại gió hung nói trên.
Nguồn: http://lysophuongdong.vn/threads/xin-cac-bac-tien-boi-chia-se-kinh-nghiem-cung-nhu-sach-ve-tang-thu.220/
Thứ Ba, 26 tháng 1, 2016
Chuẩn tắc tối cao của Địa Học.
Chuẩn tắc tối cao của Địa Học.
Bản Bí Chỉ này là chuẩn tắc tối cao của Địa Học, là tính hoa của Trăm Nghìn Năm… tôi do cơ duyên đọc được nội dung bí chỉ này, trải qua một số năm tâm huyết nghiền ngẫm kiểm nghiệm được ý nghĩa uẩn ảo của nó, nay giải thích ra truyền lại cho người đời, hy vọng người đời đọc được lưu truyền lại để không mất đi cái Đức của Đất.
Án : Hiện nay Phong Thủy Chu Dịch đã có ít nhiều biến tướng, đặc biệt là giới Địa học thu nhận đồ đệ theo kiểu lớp nọ nối lớp kia, nên đã có ít nhiều xa mất cái gốc. Chỉ dạy cho học viên các kỹ thuật hành nghề mà không giáo dục về các chuẩn tắc cơ bản về Đạo Đức, có một số học viên đến chỗ đó xem loạn điểm loạn Huyệt Địa, thậm chí trực tiếp điểm huyệt đất ngay trên mạng Internet, đây là hành vi rất nguy hại, một mặt đã vô ý phá hoại hoàn cảnh sinh thái, một mặt lại làm cho mọi người quay trở lại với tư tưởng Phong Kiến, khiến cho con người ngày nay đua nhau chiếm đất để xây mộ lớn, như vậy trong vài năm tới thì đâu còn đất để mà dùng. Đất đai là gốc của lập Nước, vậy thì xà hội mai sau, quãng khoảng trăm nghìn năm sau, mọi người dựa vào đâu để mà sinh tồn, lấy gì để tiếp tục phát triển.
Địa Lý Phong thủy vốn là việc tốt, song cần giữ gìn hoàn cảnh, bảo vệ đất đai nguồn nước, làm trong sạch khí, tiết kiệm đất dùng, tiếp tục phát triển đó chính là nguyên tắc để làm nền cho ứng dụng, song hành giữa nhu cầu và thời gian, việc Chôn Cất nên cải cách, hỏa táng cần giản dị, chỉ cần thấy nguyên thổ 1 thước để an. Trồng cây để có bóng mát, nhiều mà vô ích thì có hại. Chớ nên lập Bia Lớn, bê tông cốt thép với gạch cứng, ấy là tự mình đoạn Khí Mạch mà giam mình, nên thừa tiếp Khí tinh vi của trời đất tự nhiên.[/color]
1. Cầu Phúc Tạo Phúc Trước Lấy Thành Làm Đầu :
Bất kể mời người xem Phong Thủy hay xem hộ Phong thủy cho người, cả hai đều tất lấy thành tâm thành ý làm đầu. Tâm mà không thuần tức Ý Niệm không thuần, như thế Khí sẽ không định, Khí đã không định tất không thể hợp nhất hai Khí Âm Dương, thế thì nói gì đến thu hoạch Phúc Đức. Còn như thành tâm thành ý mà không có được Phong Thủy cực tốt, thì cũng không đem đến Đại Hung, giả gặp hung họa cũng đã giảm lực. Phong Thủy tốt không ở Tâm tốt, Tâm tốt không khỏi cần tích Đức.
2. Phong Thủy Có Thể Trấn Không Thể Đào Lên, Oán Gia Nên Giải Không Nên Kết.
Thạch cao điểm đậu hũ nhất vật giáng nhất vật, hại người tổn thương mình, người nguy đã diệt trước, tổn Chân Long Đại Địa tất nguy cho xã tắc…..
Đó là nói không nên lợi dụng nguyên lý Phong Thủy để làm tổn hại tha nhân để mình kết oán tình với người, càng không nên vô cớ phá hoại Phong thủy của người khác làm tổn thương Địa Mạch. Giăc khoảng đất trời hưng suy có luật, người không thể vì cải biến mà phá hoại, nguy cấp cho người mà cũng họa hại đến thân mà diệt vong, chỉ có thể lấy cái chết của mình mà làm điều khắc nghiệt mới có thể hại người, cũng giống như mượn tay người này hại người kia, như nếu tổn hoại phải Chân Long Đại Địa (Các Khí Mạch Lớn) thì có thể tổn hại đến cả một quốc gia, có thể đưa đến những vấn đề nghiêm trọng hoặc tai biến lớn, như nếu là Can Long, Đại tôn Quý Long hoặc Sông Lớn bị phá hoại nghiêm trọng, tất phát sinh sự vận chuyển gãy đổ của Khí vận Thiên Địa, nhân tâm cũng vì thế mà thành ra khô khan cứng lạnh, xã hội trong khoảng 10 năm cũng bị hỗn loạn…..
3. Đất Tốt Cần Có Pháp Đối Dụng, Phát Phúc Cần Phải Xem Thời Vận.
Âm Trạch, Dương Trạch không giống nhau, xí nghiệp hay các nhân có sự phân biệt, đất tốt cần phải phối hợp mệnh, lập hướng nên cần xem tháng năm. Xem được Đất tốt, Đất lớn không thể tự dùng cho mình, Chân Long Chính Huyệt không thể coi nhẹ thu lấy không thể lần phân chia loạn xạ. Đó là vì nói đến Đất Tốt khi thu dùng cần hội đủ Thiên Thời Địa Lợi Nhân Hòa khi đó mới phát huy hết tác dụng, đất tốt không thể tùy tiện từ dùng, Chân Địa không thể coi thường lấy loạn, tức chỉ cần chia lấy đất bên cạnh Huyệt Địa cũng đã coi như phá hoại Địa Mạch, Chân Huyệt khi đó coi như bỏ phế, tai vạ do đó mà sinh, đồng thời coi như đã làm lộ Bí Mật Địa Lý cho người đời biết vậy !
4. Đất Nhỏ Xem Phúc Đức, Đất Lớn Xem Cơ Duyên.
Phúc bạc duyên mỏng không thể chiếm Đại Địa, thời vận chưa đến không thể cưỡng tạo cưỡng chiếm Địa Mạch. Đó là nói về xem đất cầu đất trước tiên cần xem xem tự thân mệnh cách có phúc phần và đức tháo hay không rồi quyết định, nghèo thì lấy Phú Cục, Nguy thì lấy Bình Cục, Phú thì cầu giữ gìn trường tồn cho con cháu; Quý thì cầu An Khang bảo bình ổn, Trí với Dũng thì thu lấy Quý Cục mà cứu đời, các sự thu ấy đều cần xem thời vận đến hay chưa. Hiện nay bởi vì xã hội là thông tin giao lưu phát triển, cầu lấy Phong Thủy cũng có sự biến đổi trở lên dễ dàng, có một số người đi xa trăm dặm thậm chí nghìn dặm để mà tìm Chân Long Bảo Địa, họ cũng cũng không tiếc bỏ số vàng lớn để mà sở hữu, trộm sao cho một vận trong Tam Nguyên có thể đại phát đặc biệt, đúng là lầm lớn. Bằng vào phân tích khảo chứng phàm là các Chân Long Đại Địa vận hành một vòng cần một vài trăm năm, thậm chí nghìn năm mới quay lại một vòng, có một số đất tốt của một số gia tộc ở đã vài trăm năm sau mới phát một lần, có cái 3, 5 trăm năm rồi chưa phát, như Thiều Sơn là đất Tổ của Mao Trạch Đông từ đời Minh Hồng Vũ đã đến đó cư trú, vài trăm năm sau chưa có hiển đạt, thậm chí 5 trăm năm sau mới xuất Vĩ Nhân một đời Mao Trạch Đông. Lại có một số Phong Thủy Bào Địa ở đó vài trăm năm không phát, đến khi chuyển đi đất khác thì đại phát cát tường, như đất Tổ của thủ tướng Lý Quang Diệu đó. Cũng có một số khác rất kỳ quái, cả dòng họ đến ở vài trăm năm không phát, mà có người vừa mới dọn đến thì đã sinh quý tử thậm chí qua đường tạm trú một thời gian đã phát phúc. Cho nên mới nói Đất Phú Quý cũng cần xem cơ duyên. Đặc biệt nói rõ hiện nay lưu hành Tam Nguyên Huyền Không Đại Nguyên Pháp dùng để đoán xem Tọa Hướng với nguyên vận có hay không phù hợp, lại đoán Long vận thế vận tất vạn vạn không thể, Chân Long hành vận không thể theo Tam Nguyên (Thiên vận), mà theo Can Long và Can Khôn Đại Quái, Tam Nguyên Cửu vận cũng là Thiên tinh Lưu Hành vận, đối ứng là Thiên Khí (Ngoại Khí), mà Càn khôn Đại Quái lại là Địa Long Hành Vận, đối ứng là Địa Khí (Nội Khí), chỉ có khi nọi Khí và Ngoại Khí đồng thời cùng đến giao hỗ cảm ứng tương sinh thì Chân Long mới có thể đại nhả Tinh Hoa, Tinh Hoa Quý Nhân ứng theo vận mà sinh. Đó là dó Tiên Hiền 10 đời Tổ Sư của bản môn tập hợp trí tuệ hàng trăm năm tổng kết kinh nghiệm mà có, tức cũng có rất nhiều các Phong thủy Đại Gia và Quốc Sư trong triều đã không hề được nhìn qua. Đến như Thiên vận Địa Vận khi nào cùng đến, Thiên Khí Địa Khí giao ở điểm nào (Phương vị), làm thế nào để tính toán thì đó là một bí mật, không có được Pháp đó thì không thể nào biết! Theo Tiên Sư nói Cổ Thánh Hiền cũng là xem tượng trời rồi đoán định, có thể thấy đó là Thiên Cơ Cấm Học không phải sức người có thể thấy được!
Đất lớn bất kể là Quý Cục, Phú Cục hoặc Cục Hào Cường, đều không thể coi thường lấy dùng loạn, thuộc Sơn Xuyên Kỳ Trân thì triệu người mới có một mới dùng được, trong nghìn năm chỉ được vài chỗ, để được phú quý cũng còn rất nhiều hiểm hung, đùa bỡn không tốt cầu phúc tất thành họa, thực tế là được không đủ mất cho nên hầu như bất lợi cho người. Đến như đất lớn đại phú đại quý ở thế gian có rất ít, trong khoảng hơn trăm năm mới có thể thấy một lần Vận Địa Vận Thế với Nhân Đức hợp một, không thấy không cầu là tốt, bởi vì đa số các đất kiểu đó đều sinh ra các bậc danh thần, vũ tướng, đại nho Trị Quốc An Bang, anh hùng hào kiệt hoặc đều là vua một nước mới có thể dùng, chứ còn Phong Thủy Sư và các cá nhân chớ mơ tưởng. Vì sao như thế, có người cho rằng như thế là chỉ có ở xã hội Phong Kiến, kỳ thực không phải vậy, thí tưởng như chỉ có khi sau một thời gian quốc gia động loạn và xã hội phát sinh biến động lớn thì mới xuất hiện nhân tài kiệt xuất, họ là người sẽ nắm trong tay đại quyền quyết định sự hưng suy của quốc gia, sinh tử an nguy của nhân dân. Thế nên trong thiên hạ loại Địa Sư loạn dùng loạn tác có rất nhiều, họ có thể tác đọng đến một đất, làm một huyệt là Thiên Hạ Đại Loạn, hỏi rằng con cháu mai này phải làm sao !?
Người xưa có cảnh cáo rằng : Âm Dương Bất Khán Chân Long Địa, Khăn Liễu Chân Địa Nhãn Tình Hạt !cổ nhân thực là đã cảnh cáo không nên đem sự an nguy của quốc gia, nhân dân cùng sự phúc đức trường tồn của con cháu mình ra làm trò đùa, từ xưa đã có vô số các ví dụ về vẫn đề này, phàm không tuân thủ tích đức thì tất sau này tuyệt hậu, nếu giữ gìn được thì có thể giữ gìn con chàu sau này bình an nhân đinh hưng vượng. Điều này thế nhân không thể không nhớ. Đến như nghìn năm một Thánh Hiền ( Văn Vương – Khổng Tử - Chu Tử), năm trăm năm một Minh Quân (Là Vua Khai Quốc Trị Loạn Hưng Thế, Công Nghiệp Truyền Nghìn Năm, Đức Lớn Ra Khắp Bốn Biển) tất là thừa người Thiên Vận Địa Vận Thế Vận ứng thời mà sinh, trời giáng tượng, đất ứng vận, người theo sáng sủa, chẳng phải do sức người mà có, không ngờ không nói, ngẫu nhiên gặp được dấu tượng cũng không được lan truyền, nếu không tất tai họa liên miên.
Như có người hỏi, đã có sự cấm kỵ thế thì làm sao để dùng Phong Thủy, kỳ thực là cổ nhân đã cho chúng ta về phương pháp giải quyết, từ đời Thanh đến nay có lưu hành Tam Nguyên Huyền Không Đại Vận Pháp cũng có thể lấy vận dụng( Phương pháp tại hướng chọn lựa ngày giờ của Tam Hợp Phái cũng có thể vận dụng), chỉ cần hợp vận hợp thủy Cục Hình Cục lại được năm tốt, ngày tốt tức tính là đại cát, không cần phải tìm tòi Long Huyệt, tức không cần hợp thủy cục không cần chọn lựa đại vận, chỉ cần chọn lựa giữa Trạch Vận với vận trình Mệnh Chủ tương sinh tương hợp cùng năm tốt ngày tốt xây dựng hoặc vào ở cũng có thể thu được đại lợi. Vì sao lại thế, cần biết rằng hiện nay xã hội vận động biến đổi rất nhanh, tuy nhiên Thiên Vận (Tam Nguyên Đại Vận cùng Lưu Niên) không đổi, nên tủy xem hoàn cảnh mà cải biến, sông lớn, đường đi, cầu cống, hầm ngầm đều được con người tạo ra rất nhanh, quy luật vận hành của Địa Vận Địa Khí cũng theo đó mà cải biến, không chỉ nên chấp vào cổ pháp, nếu không ứng dụng sẽ không chuẩn xác sẽ phát snh hung họa !
Ở đây tôi đã đưa toàn bộ các kiến thức tổng hợp bí truyền của các bậc Tiên Hiền Thánh Sư không lưu dấu điều gì, kết hợp với thực tế xã hội ngày nay làm sự tổng kết cho hậu thế, hy vọng có thể đối với người đời có sự giúp đỡ và chỉ rõ.
5. Đất Đại Quý Không Quá Hai Triều, Đất Đại Phú Không Quá Ba Đời.
Lại nói về các quan chức lớn nắm đại quyền thế cũng không thể vượt qua 2 triều đại khác nhau, đấy là cảnh báo người đời khi đắc quyền nên chú ý giữ gìn tự mình xem xét không nên dựa vào quyền lực mà lừa dối thế nhân. Ba đời có thể hình dung quãng trăm năm, ở đây nói rõ giàu nghèo cũng không quá trăm năm không biến đổi, cảnh báo chúng ta chớ vì giàu có mà bất nhân, cần lúc ở yên nhớ khi nguy cấp.
6. Phong Thủy Sư Chỉ Nên Làm Công Thần Chớ Nên Làm Tội Nhân.
Thuật Phong Thủy vốn là vũ khí để điều tiết sự sai lạc của tự nhiên, quân bình sự giàu nghèo trong xã hội, cũng lại là lợi khí làm cho tăng tốc phát triển của xã hội. Phong Thủy một mặt là vì đại chúng xã hội tạo phúc, mặt khác cũng lại là tăng thêm sự tranh đấu phân hóa giàu nghèo trong xã hội, cho nên đất tốt cần thận trong mà điểm, nếu để rơi vào tay kẻ gian tà là tạo tội vậy. Thận Trọng.
7. “Một Người Ngồi Kiệu Mấy Người Khiêng, Một Nhà Phú Quý Nghìn Nhà Nghèo, Một Tướng Nên Công Vạn Xương Phơi !”
Nguyên lý chọn phúc của Phong Thủy giống như nguồn nước hoặc sức học giống như cách làm cho cán cân giữ được thăng bằng, là đem lực lượng vật chất giàu có phân chia làm cho chuyển dịch tụ tập mà thành kết quả có được sự cân bằng tương đối, đối với một số người giàu có cần khiến họ bỏ ra một phần làm việc thiện để duy trì, cho nên mới nói Đại Phong Thủy mà không có Đại Phúc Đức thì không thể hưởng dụng, nếu có ngẫu nhiên cưỡng làm hoặc có được thì phúc cũng chẳng lâu dài, đó là nguyên lý chuyển hóa năng lượng của Phong Thủy (Tạm gọi là Quy Luật Phong Thủy Lực Học) nó cũng giống như nguyên lý Tàng Phong Tụ Khí của Phong Thủy Học. Chẳng qua toàn bộ mà nói Thuật Phong Thủy tức là ở trong vô hình thúc đẩy xã hội phát triển, cân bằng điều chỉnh chuyển hóa sự giàu nghèo trong xã hội, ở vào một cấp độ cao nó có lợi cho sự bảo hộ hoàn cảnh nói chung.
8. Trồng Cây Được Mát, Khơi Nước Mở Nguồn, Mời Người Xem Đất Nên Có Hậu Tạ.
Phàm việc gì cũng có sự tác dụng của Nhân Quả, chọn lựa một chỗ Phong Thủy tốt đương nhiên cần có sự bắt đầu tốt thì mới thu hoạch, các Thầy Phong Thủy Chân Chính thay người làm Phúc (Phong Thủy Bậc Cao) tức là đã tự mình làm tiêu giảm Phúc Đức của mình (Âm Đức), bởi vì khi tạo phúc cho một người thì đồng thời trong vô hình huyền minh cũng làm tổn hại lợi ích một số người, tiết lộ Thiên Cơ Địa Lý phản bội lại quy luật sự vận chuyển trong tự nhiên, đầu tiên đã làm tổn hại Phúc Lực của bản thân và hậu thế, (Có một số kẻ tục nhân không hiểu biết về Phong Thủy đi lừa đảo người trong thiên hạ là đã tự chôn mất Đạo Đức Thiên Lương vậy thì tất ngày tuyệt diệt không xa) cho nên nói đối với Phong Thủy Sư cần có sự hồi báo tương ứng nhất định. Hậu tạ ít nhiều là ở nơi mỗi người, nếu không tất cả hai bên cùng bất lợi, sự ứng nghiệm không xa gì. Thế nhưng người thường không hiểu lại hay cho rằng ấy là lừa đảo lấy tiền bạc.
10. Phong Thủy Chuyển Luân Lưu, Phú Quý Đều Có Thời.
Đạt được Phong Thủy tốt rất cần không “Đắc ý vong hình” là làm không kịp, Khí Vận có số định, vinh khổ cũng có thời; không vì có được sự trợ giúp của Phong thủy đến khi sa vào cảnh khốn cùng lại oán thán, chỉ cần nỗ lự sẽ đến hồi thông thoáng, thời đến vận chuyển, Phong Thủy sẽ giúp rập cho ta.
Nguồn: http://tamlinhhuyenbi.net/threads/chu%E1%BA%A9n-t%E1%BA%AFc-t%E1%BB%91i-cao-c%E1%BB%A7a-%C4%90%E1%BB%8Ba-h%E1%BB%8Dc-phong-th%E1%BB%A7y.220/
Bản Bí Chỉ này là chuẩn tắc tối cao của Địa Học, là tính hoa của Trăm Nghìn Năm… tôi do cơ duyên đọc được nội dung bí chỉ này, trải qua một số năm tâm huyết nghiền ngẫm kiểm nghiệm được ý nghĩa uẩn ảo của nó, nay giải thích ra truyền lại cho người đời, hy vọng người đời đọc được lưu truyền lại để không mất đi cái Đức của Đất.
Án : Hiện nay Phong Thủy Chu Dịch đã có ít nhiều biến tướng, đặc biệt là giới Địa học thu nhận đồ đệ theo kiểu lớp nọ nối lớp kia, nên đã có ít nhiều xa mất cái gốc. Chỉ dạy cho học viên các kỹ thuật hành nghề mà không giáo dục về các chuẩn tắc cơ bản về Đạo Đức, có một số học viên đến chỗ đó xem loạn điểm loạn Huyệt Địa, thậm chí trực tiếp điểm huyệt đất ngay trên mạng Internet, đây là hành vi rất nguy hại, một mặt đã vô ý phá hoại hoàn cảnh sinh thái, một mặt lại làm cho mọi người quay trở lại với tư tưởng Phong Kiến, khiến cho con người ngày nay đua nhau chiếm đất để xây mộ lớn, như vậy trong vài năm tới thì đâu còn đất để mà dùng. Đất đai là gốc của lập Nước, vậy thì xà hội mai sau, quãng khoảng trăm nghìn năm sau, mọi người dựa vào đâu để mà sinh tồn, lấy gì để tiếp tục phát triển.
Địa Lý Phong thủy vốn là việc tốt, song cần giữ gìn hoàn cảnh, bảo vệ đất đai nguồn nước, làm trong sạch khí, tiết kiệm đất dùng, tiếp tục phát triển đó chính là nguyên tắc để làm nền cho ứng dụng, song hành giữa nhu cầu và thời gian, việc Chôn Cất nên cải cách, hỏa táng cần giản dị, chỉ cần thấy nguyên thổ 1 thước để an. Trồng cây để có bóng mát, nhiều mà vô ích thì có hại. Chớ nên lập Bia Lớn, bê tông cốt thép với gạch cứng, ấy là tự mình đoạn Khí Mạch mà giam mình, nên thừa tiếp Khí tinh vi của trời đất tự nhiên.[/color]
1. Cầu Phúc Tạo Phúc Trước Lấy Thành Làm Đầu :
Bất kể mời người xem Phong Thủy hay xem hộ Phong thủy cho người, cả hai đều tất lấy thành tâm thành ý làm đầu. Tâm mà không thuần tức Ý Niệm không thuần, như thế Khí sẽ không định, Khí đã không định tất không thể hợp nhất hai Khí Âm Dương, thế thì nói gì đến thu hoạch Phúc Đức. Còn như thành tâm thành ý mà không có được Phong Thủy cực tốt, thì cũng không đem đến Đại Hung, giả gặp hung họa cũng đã giảm lực. Phong Thủy tốt không ở Tâm tốt, Tâm tốt không khỏi cần tích Đức.
2. Phong Thủy Có Thể Trấn Không Thể Đào Lên, Oán Gia Nên Giải Không Nên Kết.
Thạch cao điểm đậu hũ nhất vật giáng nhất vật, hại người tổn thương mình, người nguy đã diệt trước, tổn Chân Long Đại Địa tất nguy cho xã tắc…..
Đó là nói không nên lợi dụng nguyên lý Phong Thủy để làm tổn hại tha nhân để mình kết oán tình với người, càng không nên vô cớ phá hoại Phong thủy của người khác làm tổn thương Địa Mạch. Giăc khoảng đất trời hưng suy có luật, người không thể vì cải biến mà phá hoại, nguy cấp cho người mà cũng họa hại đến thân mà diệt vong, chỉ có thể lấy cái chết của mình mà làm điều khắc nghiệt mới có thể hại người, cũng giống như mượn tay người này hại người kia, như nếu tổn hoại phải Chân Long Đại Địa (Các Khí Mạch Lớn) thì có thể tổn hại đến cả một quốc gia, có thể đưa đến những vấn đề nghiêm trọng hoặc tai biến lớn, như nếu là Can Long, Đại tôn Quý Long hoặc Sông Lớn bị phá hoại nghiêm trọng, tất phát sinh sự vận chuyển gãy đổ của Khí vận Thiên Địa, nhân tâm cũng vì thế mà thành ra khô khan cứng lạnh, xã hội trong khoảng 10 năm cũng bị hỗn loạn…..
3. Đất Tốt Cần Có Pháp Đối Dụng, Phát Phúc Cần Phải Xem Thời Vận.
Âm Trạch, Dương Trạch không giống nhau, xí nghiệp hay các nhân có sự phân biệt, đất tốt cần phải phối hợp mệnh, lập hướng nên cần xem tháng năm. Xem được Đất tốt, Đất lớn không thể tự dùng cho mình, Chân Long Chính Huyệt không thể coi nhẹ thu lấy không thể lần phân chia loạn xạ. Đó là vì nói đến Đất Tốt khi thu dùng cần hội đủ Thiên Thời Địa Lợi Nhân Hòa khi đó mới phát huy hết tác dụng, đất tốt không thể tùy tiện từ dùng, Chân Địa không thể coi thường lấy loạn, tức chỉ cần chia lấy đất bên cạnh Huyệt Địa cũng đã coi như phá hoại Địa Mạch, Chân Huyệt khi đó coi như bỏ phế, tai vạ do đó mà sinh, đồng thời coi như đã làm lộ Bí Mật Địa Lý cho người đời biết vậy !
4. Đất Nhỏ Xem Phúc Đức, Đất Lớn Xem Cơ Duyên.
Phúc bạc duyên mỏng không thể chiếm Đại Địa, thời vận chưa đến không thể cưỡng tạo cưỡng chiếm Địa Mạch. Đó là nói về xem đất cầu đất trước tiên cần xem xem tự thân mệnh cách có phúc phần và đức tháo hay không rồi quyết định, nghèo thì lấy Phú Cục, Nguy thì lấy Bình Cục, Phú thì cầu giữ gìn trường tồn cho con cháu; Quý thì cầu An Khang bảo bình ổn, Trí với Dũng thì thu lấy Quý Cục mà cứu đời, các sự thu ấy đều cần xem thời vận đến hay chưa. Hiện nay bởi vì xã hội là thông tin giao lưu phát triển, cầu lấy Phong Thủy cũng có sự biến đổi trở lên dễ dàng, có một số người đi xa trăm dặm thậm chí nghìn dặm để mà tìm Chân Long Bảo Địa, họ cũng cũng không tiếc bỏ số vàng lớn để mà sở hữu, trộm sao cho một vận trong Tam Nguyên có thể đại phát đặc biệt, đúng là lầm lớn. Bằng vào phân tích khảo chứng phàm là các Chân Long Đại Địa vận hành một vòng cần một vài trăm năm, thậm chí nghìn năm mới quay lại một vòng, có một số đất tốt của một số gia tộc ở đã vài trăm năm sau mới phát một lần, có cái 3, 5 trăm năm rồi chưa phát, như Thiều Sơn là đất Tổ của Mao Trạch Đông từ đời Minh Hồng Vũ đã đến đó cư trú, vài trăm năm sau chưa có hiển đạt, thậm chí 5 trăm năm sau mới xuất Vĩ Nhân một đời Mao Trạch Đông. Lại có một số Phong Thủy Bào Địa ở đó vài trăm năm không phát, đến khi chuyển đi đất khác thì đại phát cát tường, như đất Tổ của thủ tướng Lý Quang Diệu đó. Cũng có một số khác rất kỳ quái, cả dòng họ đến ở vài trăm năm không phát, mà có người vừa mới dọn đến thì đã sinh quý tử thậm chí qua đường tạm trú một thời gian đã phát phúc. Cho nên mới nói Đất Phú Quý cũng cần xem cơ duyên. Đặc biệt nói rõ hiện nay lưu hành Tam Nguyên Huyền Không Đại Nguyên Pháp dùng để đoán xem Tọa Hướng với nguyên vận có hay không phù hợp, lại đoán Long vận thế vận tất vạn vạn không thể, Chân Long hành vận không thể theo Tam Nguyên (Thiên vận), mà theo Can Long và Can Khôn Đại Quái, Tam Nguyên Cửu vận cũng là Thiên tinh Lưu Hành vận, đối ứng là Thiên Khí (Ngoại Khí), mà Càn khôn Đại Quái lại là Địa Long Hành Vận, đối ứng là Địa Khí (Nội Khí), chỉ có khi nọi Khí và Ngoại Khí đồng thời cùng đến giao hỗ cảm ứng tương sinh thì Chân Long mới có thể đại nhả Tinh Hoa, Tinh Hoa Quý Nhân ứng theo vận mà sinh. Đó là dó Tiên Hiền 10 đời Tổ Sư của bản môn tập hợp trí tuệ hàng trăm năm tổng kết kinh nghiệm mà có, tức cũng có rất nhiều các Phong thủy Đại Gia và Quốc Sư trong triều đã không hề được nhìn qua. Đến như Thiên vận Địa Vận khi nào cùng đến, Thiên Khí Địa Khí giao ở điểm nào (Phương vị), làm thế nào để tính toán thì đó là một bí mật, không có được Pháp đó thì không thể nào biết! Theo Tiên Sư nói Cổ Thánh Hiền cũng là xem tượng trời rồi đoán định, có thể thấy đó là Thiên Cơ Cấm Học không phải sức người có thể thấy được!
Đất lớn bất kể là Quý Cục, Phú Cục hoặc Cục Hào Cường, đều không thể coi thường lấy dùng loạn, thuộc Sơn Xuyên Kỳ Trân thì triệu người mới có một mới dùng được, trong nghìn năm chỉ được vài chỗ, để được phú quý cũng còn rất nhiều hiểm hung, đùa bỡn không tốt cầu phúc tất thành họa, thực tế là được không đủ mất cho nên hầu như bất lợi cho người. Đến như đất lớn đại phú đại quý ở thế gian có rất ít, trong khoảng hơn trăm năm mới có thể thấy một lần Vận Địa Vận Thế với Nhân Đức hợp một, không thấy không cầu là tốt, bởi vì đa số các đất kiểu đó đều sinh ra các bậc danh thần, vũ tướng, đại nho Trị Quốc An Bang, anh hùng hào kiệt hoặc đều là vua một nước mới có thể dùng, chứ còn Phong Thủy Sư và các cá nhân chớ mơ tưởng. Vì sao như thế, có người cho rằng như thế là chỉ có ở xã hội Phong Kiến, kỳ thực không phải vậy, thí tưởng như chỉ có khi sau một thời gian quốc gia động loạn và xã hội phát sinh biến động lớn thì mới xuất hiện nhân tài kiệt xuất, họ là người sẽ nắm trong tay đại quyền quyết định sự hưng suy của quốc gia, sinh tử an nguy của nhân dân. Thế nên trong thiên hạ loại Địa Sư loạn dùng loạn tác có rất nhiều, họ có thể tác đọng đến một đất, làm một huyệt là Thiên Hạ Đại Loạn, hỏi rằng con cháu mai này phải làm sao !?
Người xưa có cảnh cáo rằng : Âm Dương Bất Khán Chân Long Địa, Khăn Liễu Chân Địa Nhãn Tình Hạt !cổ nhân thực là đã cảnh cáo không nên đem sự an nguy của quốc gia, nhân dân cùng sự phúc đức trường tồn của con cháu mình ra làm trò đùa, từ xưa đã có vô số các ví dụ về vẫn đề này, phàm không tuân thủ tích đức thì tất sau này tuyệt hậu, nếu giữ gìn được thì có thể giữ gìn con chàu sau này bình an nhân đinh hưng vượng. Điều này thế nhân không thể không nhớ. Đến như nghìn năm một Thánh Hiền ( Văn Vương – Khổng Tử - Chu Tử), năm trăm năm một Minh Quân (Là Vua Khai Quốc Trị Loạn Hưng Thế, Công Nghiệp Truyền Nghìn Năm, Đức Lớn Ra Khắp Bốn Biển) tất là thừa người Thiên Vận Địa Vận Thế Vận ứng thời mà sinh, trời giáng tượng, đất ứng vận, người theo sáng sủa, chẳng phải do sức người mà có, không ngờ không nói, ngẫu nhiên gặp được dấu tượng cũng không được lan truyền, nếu không tất tai họa liên miên.
Như có người hỏi, đã có sự cấm kỵ thế thì làm sao để dùng Phong Thủy, kỳ thực là cổ nhân đã cho chúng ta về phương pháp giải quyết, từ đời Thanh đến nay có lưu hành Tam Nguyên Huyền Không Đại Vận Pháp cũng có thể lấy vận dụng( Phương pháp tại hướng chọn lựa ngày giờ của Tam Hợp Phái cũng có thể vận dụng), chỉ cần hợp vận hợp thủy Cục Hình Cục lại được năm tốt, ngày tốt tức tính là đại cát, không cần phải tìm tòi Long Huyệt, tức không cần hợp thủy cục không cần chọn lựa đại vận, chỉ cần chọn lựa giữa Trạch Vận với vận trình Mệnh Chủ tương sinh tương hợp cùng năm tốt ngày tốt xây dựng hoặc vào ở cũng có thể thu được đại lợi. Vì sao lại thế, cần biết rằng hiện nay xã hội vận động biến đổi rất nhanh, tuy nhiên Thiên Vận (Tam Nguyên Đại Vận cùng Lưu Niên) không đổi, nên tủy xem hoàn cảnh mà cải biến, sông lớn, đường đi, cầu cống, hầm ngầm đều được con người tạo ra rất nhanh, quy luật vận hành của Địa Vận Địa Khí cũng theo đó mà cải biến, không chỉ nên chấp vào cổ pháp, nếu không ứng dụng sẽ không chuẩn xác sẽ phát snh hung họa !
Ở đây tôi đã đưa toàn bộ các kiến thức tổng hợp bí truyền của các bậc Tiên Hiền Thánh Sư không lưu dấu điều gì, kết hợp với thực tế xã hội ngày nay làm sự tổng kết cho hậu thế, hy vọng có thể đối với người đời có sự giúp đỡ và chỉ rõ.
5. Đất Đại Quý Không Quá Hai Triều, Đất Đại Phú Không Quá Ba Đời.
Lại nói về các quan chức lớn nắm đại quyền thế cũng không thể vượt qua 2 triều đại khác nhau, đấy là cảnh báo người đời khi đắc quyền nên chú ý giữ gìn tự mình xem xét không nên dựa vào quyền lực mà lừa dối thế nhân. Ba đời có thể hình dung quãng trăm năm, ở đây nói rõ giàu nghèo cũng không quá trăm năm không biến đổi, cảnh báo chúng ta chớ vì giàu có mà bất nhân, cần lúc ở yên nhớ khi nguy cấp.
6. Phong Thủy Sư Chỉ Nên Làm Công Thần Chớ Nên Làm Tội Nhân.
Thuật Phong Thủy vốn là vũ khí để điều tiết sự sai lạc của tự nhiên, quân bình sự giàu nghèo trong xã hội, cũng lại là lợi khí làm cho tăng tốc phát triển của xã hội. Phong Thủy một mặt là vì đại chúng xã hội tạo phúc, mặt khác cũng lại là tăng thêm sự tranh đấu phân hóa giàu nghèo trong xã hội, cho nên đất tốt cần thận trong mà điểm, nếu để rơi vào tay kẻ gian tà là tạo tội vậy. Thận Trọng.
7. “Một Người Ngồi Kiệu Mấy Người Khiêng, Một Nhà Phú Quý Nghìn Nhà Nghèo, Một Tướng Nên Công Vạn Xương Phơi !”
Nguyên lý chọn phúc của Phong Thủy giống như nguồn nước hoặc sức học giống như cách làm cho cán cân giữ được thăng bằng, là đem lực lượng vật chất giàu có phân chia làm cho chuyển dịch tụ tập mà thành kết quả có được sự cân bằng tương đối, đối với một số người giàu có cần khiến họ bỏ ra một phần làm việc thiện để duy trì, cho nên mới nói Đại Phong Thủy mà không có Đại Phúc Đức thì không thể hưởng dụng, nếu có ngẫu nhiên cưỡng làm hoặc có được thì phúc cũng chẳng lâu dài, đó là nguyên lý chuyển hóa năng lượng của Phong Thủy (Tạm gọi là Quy Luật Phong Thủy Lực Học) nó cũng giống như nguyên lý Tàng Phong Tụ Khí của Phong Thủy Học. Chẳng qua toàn bộ mà nói Thuật Phong Thủy tức là ở trong vô hình thúc đẩy xã hội phát triển, cân bằng điều chỉnh chuyển hóa sự giàu nghèo trong xã hội, ở vào một cấp độ cao nó có lợi cho sự bảo hộ hoàn cảnh nói chung.
8. Trồng Cây Được Mát, Khơi Nước Mở Nguồn, Mời Người Xem Đất Nên Có Hậu Tạ.
Phàm việc gì cũng có sự tác dụng của Nhân Quả, chọn lựa một chỗ Phong Thủy tốt đương nhiên cần có sự bắt đầu tốt thì mới thu hoạch, các Thầy Phong Thủy Chân Chính thay người làm Phúc (Phong Thủy Bậc Cao) tức là đã tự mình làm tiêu giảm Phúc Đức của mình (Âm Đức), bởi vì khi tạo phúc cho một người thì đồng thời trong vô hình huyền minh cũng làm tổn hại lợi ích một số người, tiết lộ Thiên Cơ Địa Lý phản bội lại quy luật sự vận chuyển trong tự nhiên, đầu tiên đã làm tổn hại Phúc Lực của bản thân và hậu thế, (Có một số kẻ tục nhân không hiểu biết về Phong Thủy đi lừa đảo người trong thiên hạ là đã tự chôn mất Đạo Đức Thiên Lương vậy thì tất ngày tuyệt diệt không xa) cho nên nói đối với Phong Thủy Sư cần có sự hồi báo tương ứng nhất định. Hậu tạ ít nhiều là ở nơi mỗi người, nếu không tất cả hai bên cùng bất lợi, sự ứng nghiệm không xa gì. Thế nhưng người thường không hiểu lại hay cho rằng ấy là lừa đảo lấy tiền bạc.
10. Phong Thủy Chuyển Luân Lưu, Phú Quý Đều Có Thời.
Đạt được Phong Thủy tốt rất cần không “Đắc ý vong hình” là làm không kịp, Khí Vận có số định, vinh khổ cũng có thời; không vì có được sự trợ giúp của Phong thủy đến khi sa vào cảnh khốn cùng lại oán thán, chỉ cần nỗ lự sẽ đến hồi thông thoáng, thời đến vận chuyển, Phong Thủy sẽ giúp rập cho ta.
Nguồn: http://tamlinhhuyenbi.net/threads/chu%E1%BA%A9n-t%E1%BA%AFc-t%E1%BB%91i-cao-c%E1%BB%A7a-%C4%90%E1%BB%8Ba-h%E1%BB%8Dc-phong-th%E1%BB%A7y.220/
Thứ Hai, 25 tháng 1, 2016
ÂM DƯƠNG HìNH LÝ TRONG ĐỊA LÝ DƯƠNG TRẠCH
Âm dương Hình lý trong địa lý dương trạch
Từ hàng ngàn năm trước, con người đã ý thức được rằng các yếu tố thiên nhiên ảnh hưỡng rất lớn đến họa phúc và có thể quyết định vận mạng con người. Ngay từ thời kỳ hang động, con người đã phải biết phục tùng, thích ứng với thiên nhiên để có thể sinh tồn và phát triển. Con người đã nhận thấy chỗ cư trú cần phải được che chắn để có thể tránh được gió từ phương Bắc. Đồng thời, hai bên hông cũng cần che chắn đủ để nơi cư trú được ấm hơn. Theo quan niệm của Khoa Phong Thủy, từ nguyên thủy, con người phát sinh từ phương Bắc, cho nên một số tài liệu lưu truyền lại đều cho rằng nhà cửa phải hướng về phương Nam mới tốt. Quan niệm này chỉ đúng một phần, là vì, quả thật gió từ phương Bắc quá lạnh. Con người đã biết phải dựa vào núi làm nơi cư trú, cho nên nhà cửa phải chọn hướng Nam. Đồng thời cũng theo truyền thuyết, ngày xưa những dân tộc ở phương Nam, người Trung Hoa thường gọi là rợ Nam cần phải được khai hóa. Các đền đài vua chúa đều quay về hướng Nam là chỉ để tiêu biểu cho sự mong ước thống trị toàn phương Nam của các triều đại ngày xưa. Càng ngày con người càng biết thích ứng với thiên nhiên, càng biết cải tạo những điều kiện hiện có của thiên nhiên để có thể tồn tại. Những kinh nghiệm thực tế được lưu truyền, tích lũy từ đời này sang đời khác, khắc sâu vào lòng người, ảnh hưỡng rộng khắp trong cuộc sống, tác động vào tâm lý và hành động của con người và đó mới là tiền đồ căn bản của Thuật Phong Thủy. Phong chính là gió và Thủy chính là nước . Gió và nước là hai yếu tố thiên nhiên vốn luôn luôn động. Đồi núi đất đai thì vốn luôn luôn tĩnh. Sự chuyển động không ngừng của hai yếu tố gió và nước đã làm thay đổi, ảnh hưỡng đến hình thể vốn cố định của đồi núi đất đai. Con người đã biết dựa lưng vào núi để tránh gió là vì kinh nghiệm cho thấy hể đâu có gió thổi vào y rằng chỗ đó xấu, nhiều tai họa sẽ đến. Chỗ nào tốt, có sinh khí là những chỗ có nước tụ lại hoặc những chỗ có núi ôm vòng bao bọc trước sau để có thể che chắn được gió. Thế nhưng, hai thể gió và nước lại không thể tách rời được nhau là vì chỗ nào có gió mà không có nước thì chỗ đó lại bị cằn khô. Chỗ nào có nước mà gió đến thì chỗ đó sinh khí bị tiêu tán và nơi đó sẽ bị lạnh lẽo. Chỗ nào có nước tụ lại mà gió tán đi thì chỗ đó có sinh khí, đất đai màu mỡ, ấm áp, cây cỏ tốt tươi. Nước và núi thì hữu hình nhưng gió thì lại vô hình cho nên phải nhìn vào thế đi của nước và núi mới có thể biết được gió đi hay tán.
Quả thật trong thiên nhiên, hai yếu tố gió và nước ảnh hưỡng thật lớn lao . Gió có thể đem phấn hoa để cây cối đơm bông kết nụ. Nước có thể đem sức sống, nuôi dưỡng cho vạn vật và con ngưởi. Nhưng gió có thể giận dũ trở thành những cơn bão gào thét tàn phá núi rừng. Nước có thể trở thành những cơn lũ san bằng làng xóm thành bình địa.
- Phía sau là núi, gọi là Huyền Võ.
- Bên trái là Thanh Long.
- Bên phải là Bạch Hổ.
- Trước mặt là Chu Tước.
Huyền Võ cần phải cao và dày để ngăn chận được gió.
Phải và trái cần đủ kín để che chắn hai bên hông.
Nghĩa là: Chổ cư trú cần vững chắc gần y như ghế dựa.
Thế nhưng, một nơi được gọi là tốt lành cho con người xây dựng nhà cửa để cư trú, yếu tố chắn Gió chỉ là thứ yếu. Yếu tố Nước mới là quan trọng, vì ở đâu có Nước, ở đó mơí có Khí. Hoặc ở đâu Nước dừng thì ở đó Khí mới Tụ. Nhất Tụ Khí, Nhì mới Tàng Phong là vậy.
Vô Tình
Nước có 5 dạng xấu . Gọi là Ngũ Hung của nước:
- Bạo là nước chảy ào ạt.
- Liêu là nước chảy lênh láng.
- Trọc là nước đục ngầu.
- Lại là nước chảy xiết.
- Than là nước chảy xối xã.
Núi cũng có 5 dạng xấu của núi. Gọi là Ngũ Hung của núi:
- Đồng là núi trọc.
- Đoạn là núi đứt.
- Thạch là núi đá.
- Quá là núi vượt quá hình thể
- Độc là núi đơn côi.
Núi dẩn nước mà Khí là mẹ của nước. Khí chuyển động cho nên nước chuyển động theo. Theo quan niệm của khoa Phong Thủy, ban đầu chỉ có Khí, đầu tiên hóa thành nước, nước tích tụ tạp chất hóa thành núi .
Vậy là: Nổi lên mặt đất mà trông thấy vết tích đó là nước, chuyển động trong lòng đất mà không thấy hình đó là khí, cho nên xem nước từ đâu đến là biết khí bắt nguồn từ đâu là vậy.
Ngoài quan niệm Khí, nước chính là hình ảnh của các dòng sông. Ngày xưa, nước uống nuôi sống con người, tạo thức ăn thủy sản và sông ngòi thì còn là phương tiện chính để di chuyển .Bởi thế, sau này các nhà phong thủy đã xem con đường mang một phần tính chất của giòng sông trong sự chuyển động của khí là vì vậy.
Những nơi cư trú tốt là những nơi có núi ôm vòng trở lại, có nước bao quanh. Lớn thì xây dựng Quốc Gia, vừa thì làm đô thị, nhỏ thì xây dựng xóm làng, nhỏ nữa thì làm nơi an táng, nghĩa địa. Nhà cửa đất đai lớn nhỏ có khác nhau nhưng hung họa thì lại giống nhau. Nên chọn cư ngụ những nơi núi lớn , sông lớn giao hội. Những nơi nhiều núi thì tìm những chổ bằng phẳng. Ở bình nguyên thì tìm nơi có sông, có nước. Nơi sơn lâm thì tìm chổ kín gió. Những nơi núi bỗng dưng nghiêng chệch hướng ra phía khác thì rõ ràng đó không phải là nơi tốt lành. Các nhà Phong Thủy chuộng những nơi long mạch phải dài, chổ phải thoáng rộng, thủy lưu phải uốn lượn vòng vèo và phải giao hội. Những nơi có núi như hộ vệ hai bên chắp tay vái chào nhau là những nơi nhất định được bình yên, tốt lành.
Lưu Ý những nơi cần tránh làm chổ cư trú:
Nơi quá cận núi
Nơi núi đâm thẳng
Nơi núi đứt đoạn
Nơi núi vô tình quay lưng lại
Nơi nước đâm thẳng
Nơi nước chảy ào ạt:
Nơi nước vô tình:
Nơi nước chảy đi (Tán): Nước chảy đi là nước tẻ làm đôi.
Nước đến là nước 2 giòng nhập lại một (Tụ)
Hãy dùng nhản giới mà quan sát, hãy dùng tâm mà định nhận. Bình nguyên thì cao hơn một chút cũng là chân long. Chổ cao thì nhìn núi, chổ bằng phẳng thì nhìn sông.
ÂM DƯƠNG
Âm dương là biểu hiện của tỉnh và động. Trời dương thì động, đất âm thì tỉnh. Âm dương tỉnh động, đầy vơi, lên xuống, sáng tối, lạnh nóng. . . . . . hai thể không tách rời được nhau. Con người là do khí âm dương sinh ra, do đó con người phải biết thuận theo âm dương: thuận thì sống, chống lại thì chết.
Thuật phong thủy căn bản từ Dịch Lý, cho rằng Âm Dương vốn để biễu hiện sáng và tối. Phía mặt trời là ánh Sáng (dương). Quay lưng lại phía mặt trời là bóng tối (âm). Mặt trời khởi từ Tý, lớn ở Mão và Vượng ở Ngọ. Tý làø giữa đêm, Ngọ là giữa trưa. Từ giờ ngọ, bóng tối bắt đầu xuất hiện, lớn ở Dậu và vượng ở Tý. Bởi thế, âm cực thì sinh dương, dương cực thì sinh âm hay dương sinh từ Tý, Âm sinh từ Ngọ là vậy.
Thái Cực
Lưỡng Nghi
Âm Dương
Tứ Tượng
Biểu hiện trong âm có dương, trong dương có âm.
Hay Thái cực sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh tứ tượng. Theo chiều thuận kim đồng hồ, Dương sinh ở bên trái, Âm sinh từ bên phải.
Nét liền ( ) biểu thị cho Dương.
Nét đứt ( ) biểu thị cho Âm.
Dương là đàn ông bên tay trái.
Âm là đàn bà bên tay phải.
Như vậy:
Thanh Long thuộc dương.
Bạch Hổ thuộc âm.
Âm Dương sáng tối sinh ra ngày đêm. Ngày đến đêm, đêm đến ngày sinh ra bốn mùa xuân hạ thu đông không bao giờ dứt. Âm Dương đầy khắp trong vũ trụ, luôn luôn tác động, ảnh hưởng hết mọi loài.
Hình và Khí:
Hoàng Công Tổ Sư dạy phép dương trạch trong Thiên tinh tâm pháp có nhắc : Một âm một dương gọi là đạo.Một động một tỉnh gọi là khí. Một đến một đi gọi là vận. như vậy người chỉ mới nhắc về khí chứ chưa nói về hình. Vì hình và khí thì hoàn toàn khác biệt. Khí âm thì tỉnh mà hình lại cương cường. Khí dương thì động mà hình lại nhu mì, không cương mãnh. Bởi thế các nhà Phong thủy đã căn cứ vào hình để luận về khí vì khí đã được thể hiện bởi hình.
Hãy nhìn vào dạng của Nước thì rõ biết. Khí âm càng nhiều thì nước càng vón cục, đặc cứng. Khí dương càng lớn thì nước lõng chảy nhu mì, uyển chuyển. Cho nên, càng về phía Bắc, âm khí càng nhiều núi càng cao càng cương mảnh. Càng dần về phía Nam, khí dương lấn át khí âm, cho nên đất đai bằng phẳng ít núi ít đồi. Trời dương thì có mây có gió, đất âm thì có núi có sông. Con người ỏ giữa trời và dất nên cũng phải có cửa có nhà. Dù to nhỏ khác nhau, hình dạng có khác nhau và ngay cả những người ngụ cùng chung một nhà cũng có thiện ác khác nhau. Con người phải biết những quy luật biến hóa của âm dương để thuận theo. Thuận thì yên, nghịch thì không yên, suy thoái.
Cao thì Khí Âm
Bằng phẳng thì Khí Dương
NGŨ HÀNH:
Trong vũ trụ, không gì ngoài năm thể là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ gọi là ngũ hành.
Kim là kim loại - màu trắng - hình tròn.
Mộc là cây cối - màu xanh - hình thẳng.
Thủy là nước lỏng - màu đen - hình uốn lượn.
Hỏa là lửa - màu đỏ - hình nhọn.
Thổ là đất đai – màu vàng - hình vuông.
Kim sinh thủy – Thủy sinh mộc – Mộc sinh hỏa – Hỏa sinh thổ – Thổ sinh kim, gọi là vòng tương sinh.
Kim khắc mộc – Mộc khắc thổ – Thổ khắc thủy – Thủy khắc hỏa – Hỏa khắc kim, gọi là vòng tương khắc.
Ngũ hành quý ở sự hài hòa, tương hợp, vì vậy luật THAM SINH KỴ KHẮC luôn luôn được tận dụng trong khoa Dịch Lý nói chung, Địa lý nói riêng.
Ví dụ:
Kim đang khắc Mộc, nhưng nếu có Thủy xen vào thì Kim sẽ thích đi sinh Thủy, không còn đi khắc Mộc nữa. Đồng thời khi đó Thủy đủ lực để đi sinh Mộc. Mộc không còn bị Kim khắc.
Đặc biệt, trường hợp hai khí cùng một hành mà gặp nhau thì gọi là ngũ hành tương ngộ.
Ví dụ:
Phương nam mà có hỏa hình. Hay hỏa gặp hỏa lắm điều kiện tụng.
Phương bắc mà có thủy hình. Hay thủy gặp thủy thì tính sẽ dâm.
Phương mộc mà có mộc hình. Hay mộc gặp mộc thì phú quý,yên lành.
Phương kim mà gặp kim hình. Hay kim gặp kim thì giàu sang.
Phương thổ mà gặp thổ hình. Hay thổ gặp thổ thì tính sẽ ngu.
Ngũ hành tương ngộ thường gặp trong đia lý dương trạch, cho nên cần phải lưu ý rất nhiều.
Thuật phong thủy cho rằng Ngũ Hành là Cương Lĩnh của âm dương, là quyền năng của tạo hóa. Tất cả đều phải dựa vào ngũ hành mới có thể biện phương lập hướng.
Như vậy, ngay sau khi chọn được địa điểm xây dựng nhà, điều trước tiên phải nhận định cho đúng khu vực thuộc hành gì bằng cách xem xét núi non, cảnh vật chung quanh để sao cho được ngũ hành tương sinh. Ví dụ: Núi hành kim, kim sẽ đi sinh thủy. Kiểu nhà hành thủy sẽ được đại lợi.
Ví dụ:
Núi hành mộc, mộc sẽ sinh hỏa. Kiểu nhà hành hỏa sẽ được đại lợi.
Theo quan niệm của đông phương, Người thì có tóc, nhà thì có nóc. Căn cứ vào hình dạng của nóc hay mái nhà dể định ngũ hành.
BÁT QUÁI và PHƯƠNG HƯỚNG:
La Bàn: Muốn biết chính xác phương hướng, Ngoài cách nhìn tính phương hướng của SAO trên trời, cách này đòi hỏi nhiều kinh nghiệm thực tế. Cách đơn giản và thực dụng nhất hiện nay là cách sử dụng la bàn.
Trên mặt của la bàn, mủi tên luôn luôn chỉ về hướng Bắc. Cho dù ở vị trí nào, hướng bắc phải được xác định trước rồi lần lượt theo chiều kim đồng hồ để xác định hướng Đông, tiếp theo là hai hướng Nam và Tây.
Giữa Bắc và Đông là hướng Đông Bắc.
Giữa Đông và Nam là hướng Đông Nam.
Giữa Nam và Tây là hướng Tây Nam.
Giữa Tây và Bắc là hướng Tây Bắc.
Tám hướng theo La bàn ứng với 8 quẻ gọi là Bát quái:
Quẻ Càn: Ba vạch liền: Hướng Tây Bắc ( Tuất-hợi)
Quẻ Khảm: Vạch giữa liền: Hướng chính Bắc ( Tý )
Quẻ Cấn: Vạch trên liền: Hướng Đông Bắc ( Sửu–Dần )
Quẻ Chấn: Vạch dưới liền: Hướng chính đông ( Mão )
Quẻ Tốn: Vạch dưới đứt: Hướng Đông Nam ( Thìn-Tỵ )
Quẻ Ly: Vạch giữa đứt: Hướng chính Nam ( Ngọ )
Quẻ Khôn: Ba vạch đứt: Hướng Tây Nam ( Mùi-Thân )
Quẻ Đoài : Vạch trên đứt: Hướng chính Tây ( Dậu )
Cần phân biệt rỏ 2 loại bát quái: Bát quái Tiên Thiên và Bát quái Hậu Thiên.
Bát quái Tiên thiên hay gọi là Phục Hy Tiên thiên Bát quái đồ thứ tự theo tám quẻ:
1 Càn - 2 Đoài - 3 Ly - 4 Chấn - 5 Tốn - 6 Khảm - 7 Cấn - 8 Khôn
Bát quái Hậu thiên hay goị là Văn Vương Hậu Thiên Bát quái đồ. Thứ tự theo tám quẻ:
1 Càn - 2 Khảm - 3 Cấn - 4 Chấn - 5 Tốn - 6 Ly - 7 Khôn - 8 Đoài
Trong khoa địa lý phong thủy, Bát Quái Hậu Thiên được sử dụng phù hợp với vạn vật đã sinh. Phương hướng thực tế, la bàn hoàn toàn phù hợp với cách bố trí các quẻ trong hậu thiên bát quái.
Một số ý nghĩa của các quẻ liên quan về phương hướng và người:
Quẻ Càn ba vạch toàn dương, hành KIM, tượng trưng cho Cha, phương tây bắc tuất hợi.
Quẻ Khảm vạch giữa liền, hành THỦY tượng trưng cho con trai giữa, phương chính bắc, Tý.
Quẻ Cấn vạch trên liền, hành THỔ tượng trưng cho con trai út, phương đông bắc, sửu dần.
Quẻ Chấn vạch dưới liền, hành MỘC tượng trưng cho con trai trưởng, phương chính đông, mão.
Quẻ Tốn vạch dưới đứt, hành MỘC tượng trưng cho con gái trưởng, phương đông nam, thìn tỵ.
Quẻ Ly vạch giữa đứt, hành HỎA tượng trưng cho con gái giữa, phương chính nam, ngọ.
Quẻ Khôn ba vạch đều đứt, hành THỔ tượng trưng cho Mẹ, phương tây nam, mùi thân.
Quẻ Đoài vạch trên liền, hành KIM tượng trưng cho con gái út, phương chính tây, dậu.
Lưu ý:
Phần căn bản về Bát Quái, cần học đi học lại nhiều lần mới nhớ được. Phần nầy không thuộc được thì sẽ gặp nhiều khó khăn ở các phần sau.
Một số kinh nghiệm tồn động từ đời này sang đời khác, ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống hàng ngày:
1) Đất Cao/Thấp: Nhà ở trong một khu vực phía cao, phía thấp thì cần phân biệt các trường hợp:
- Phía đông cao, phía tây thấp là vị trí tốt lành, không cần phân biệt trước hay sau nhà. Gọi là có nhiều sinh khí.
- Phía tây cao, phía đông thấp là vị trí xấu, không tốt cho việc xây dựng nhà ở, kinh doanh. Gọi là đất không có sinh khí.
- Phía bắc cao, phía nam thấp là vị trí tốt lành cho việc xây nhà ở. Ngược lại,ø phía bắc thấp , phía nam cao là vị trí không tốt lành cho việc xây dựng nhà ở, kinh doanh.
Những hướng còn lại đều cần phần đất phía sau nhà phải cao hơn phía trước mới gọi là tốt lành.
2) Rộng/Hẹp:
Phía đằng sau nhà, đất đai rộng hơn phía trước là tốt lành. Phía sau đất đai hẹp hơn phía trước là tiền kiết hậu hung, xấu.
3) Lồi/Khuyết:
Hướng Bắc hay là hướng tý cần cao và hướng nam hay hướng ngọ cần thấp, nhưng cả hai hướng đều không được khuyết. Khuyết thì nhà cửa sẽ đơn cô.
Các hướng đông, tây dù cho bị khuyết cũng không sao. Chỉ cần phía đông cao hơn phía tây là đủ.
Tuy nhiên không gì tốt hơn một vị trí đất đai bằng phẳng, phía đằng sau có núi, phía đằng trước có sông. Sinh khí sẽ đầy tràn.
4) Trái/Phải:
Khi xây dựng nhà cửa, sau khi xem xét kỷ vị trí, đất đai cao thấp không đều thì nên chọn phía bên trái cần cao hơn phía bên phải. Vì bên trái là tay long, hành mộc thuộc Dương. Bên tay phải là tay hổ, hành kim thuộc Âm. Dương càng nhiều thì sinh khí càng lớn, phước lộc càng dồi dào. Tuy nhiên, trong phong thủy địa lý rất cẩn trọng sự hài hòa. Dương hay âm thái quá đều không tốt. Trong dương cần có âm, trong âm cần có dương là vậy
Đường Cái:
Những ngôi nhà sát cạnh sông hồ sẽ nhận trực tiếp KHÍ THỦY của sông hồ, nhưng những con đường dẫn đến nhà cũng ảnh hưởng đến ngôi nhà không ít. Kinh nghiệm cho thấy những ngôi nhà bị đường đâm thẳng vào thường bị nhiều bất ổn, không yên. Tuy nhiên, không phải người nào cũng bị ảnh hưởng mà tùy phương hướng nào cuả ngôi nhà bị đường đâm vào thì phương đó mới bị tổn thương.
Đường đâm vào phương Càn
Tây Bắc - Tuất Hợi thì người cha trong gia đình sẽ bị tổn hại.
Đường đâm vào phương Khảm
Bắc - Tý, thì tổn hại cho người con trai giữa.
Đường đâm vào phương Cấn
Đông Bắc - Sửu Dần, thì tổn hại cho người con trai út.
Đường đâm vào phương Chấn
Chính Đông - Mão thì tổn hại cho người con trai trưởng.
Đường đâm vào phương Tốn
Đông Nam- Thìn Tỵ thì tổn hại cho người con gái đầu.
Đường đâm vào phương Ly
Chính Nam – Ngọ thì tổn hại cho người con gái giữa.
Đường đâm vào phương Khôn
Tây Nam - Mùi Thân thì sẽ tổn hại cho người Mẹ.
Đường đâm vào phương Đoài
Chính Tây - Dậu thì sẽ tổn hại cho người con gái út.
Đường cần ôm vòng lấy ngôi nhà nhưng không được ôm quá siết, quá chặt. Phía Nam của ngôi nhà mà có đường là ngôi nhà đại lợi. Phía đông, bắc có đường thì không được tốt. Riêng tại hướng đông nam của nhà ở mà có ngã ba đường cái thì được sinh khí dồi dào, làm ăn thịnh vượng. Phía đông có sông có biển thì lại tốt hơn nữa.
HÌNH và KHÍ
Khí thì dựa vào tượng để thành hình và Hình thì để thể hiện Khí. Hình và Khí hoàn toàn khác biệt nhưng lại không thể tách rời được nhau. Muốn biết Khí thì phải dựa vào Hình.
Thế nhưng mấy ai rõ biết?
Hãy quan sát núi non trùng trùng, điệp điệp ở phương Bắc và bình nguyên rộng lớn trải dài ở phương Nam. Phương Bắc lạnh lẽo, âm khí thì nhiều. Phương Nam nắng ấm dương khí cùng khắp. Âm thì lạnh, tỉnh. Dương thì nóng, động. Khí Âm thì Trầm, Khí Dương thì Phù.
ÂM DƯƠNG
Bắc Nam
Lạnh Nóng
Tĩnh Động
Trầm Phù
Càng về Phương Bắc Âm khí càng lớn thì núi non càng hùng vĩ, càng về Phương Nam, Dương khí càng nhiều thì núi non càng hiếm, đất đai bằng phẳng. Khí âm thì nhu, trầm nhưng Hình thì cương cường bạo liệt. Khí Dương thì cương, phù, nhưng Hình thì nhu mì bằng phẳng.
Phong là Gió, là nộ khí của trời đất. Gió càng lớn thí Âm khí càng nhiều. Sấm thuộc Dương khí cho nên mổi khi thấy Sấm động thì Bảo sắp dứt. Có phải là Âm khí của Bảo bị Dương đánh tan hay không? Bởi thế, càng ở chổ cao, thì gió càng lớn. Ởû Phương Bắc, Âm khí thì nhiều mà khí Dương thì thường yếu kém không đủ, cho nên hình thể là núi non trùng điệp, cương cường. Ở phương Nam khí Dương thì nhiều, khí Âm thì yếu kém không đủ, cho nên hình thể bằng phẳng nhu mì.
Lê quý Đôn trong Vân Đài Loại Ngữ thêm: Ở Phương Bắc, trời tiết chưa rét lắm mà Nước đã đông đặc thành băng, bởi lẽ khí Dương qúa yếu kém không đủ để lấn át khí Âm. Ở phương Nam, Dương khí thì nhiều lấn át khí Âm, khí âm thường tan biến phía dưới, cho nên nước không thể đông đặc đóng thành băng được.
Hình và Khí như vậy là đã rõ
Những nơi Âm khí nhiều thì Hình cương cường bạo liệt. Những nơi Dương khí nhiều thì Hình nhu mì bằng phẳng.
Trời thuộc Dương cho nên Hình thì động mà Khí thì tỉnh.
Đất thuộc Âm cho nên Hình thì tĩnh mà Khí thì động.
Dịch lấy Âm Dương hai khí làm trọng. Trong Âm phải có Dương, trong Dương phải có Âm. Có Âm hay có Dương thì không thể tồn tại. Phong Thủy thì coi trọng Hình thể. Núi non cương mãnh thì Dụng là Dương nhưng cái Thể là Âm. Bình nguyên rộng khắp, nhu mì thì Dụng là Âm nhưng cái Thể là Dương. Rõ ràng Âm Dương, Hình và Khí hoàn toàn vẫn không thể tách rời được nhau.
Hãy nhìn kỹ bàn tay xấp ngửa để hình dung. Bàn tay xấp thuộc Âm nhưng Hình thì gồ ghề, dáng cương mãnh hiển lộ, rõ ràng không chút ẩn giấu. Bàn tay ngửa thuộc Dương nhưng Hình thì bằng phẳng nhu mì, mềm mại. . . . . .
Hoặc cũng có thể hình dung trạng thái của Nước. Âm khí nhiều thì nước vón cục thành đá cứng nhắc, Dương khí nhiều thì nước nhu mì, uyển động.
A Lý Toàn Thư của Lê Bá Ôn có ghi lại phần giải đáp giữa Dương Quân Tùng và Sư Nhất Hạnh.
Tăng hỏi: Âm là gì? Dương là gì?
Dương công đáp: Hai chữ Âm Dương là cốt lõi của phong thủy, là Hình và Khí được tạo rồi hóa mà thành. Dương khí có hình dạng lõm (OA ), Âm Khí cò hình dạng lồi (ĐỘT). Âm biến thì hóa thành Dương, Dương biến thì hóa thành Âm. Nếu Dương long đến thì Âm thụ huyệt. Nếu Âm long đến thì Dương thụ huyệt hay Âm lai thì Dương thụ, Dương lai thì âm thụ. Âm Dương, Hình, Khí, đạo lý của tạo hóa là như vậy.
Lại hỏi: Âm lai Dương thụ là gì?
Dương công đáp: Mạch có sóng lưng, khi tiến nhập vào chổ huyệt có chổ lõm thì gọi là Âm lai Dương thụ.
Lại hỏi: Dương lai Âm thụ là gì?
Dương công đáp: Thế đến của Mạch tương đối bình hòa, chổ lồi chính là chổ nhập huyệt. Thì gọi là Dương lai Âm thụ.
Họ Trúc giãi thích thêm: Phàm là địa hình có thể thụ huyệt, nếu giống OA (lõm), KIỀM (kẹp), PHỆ (mở ra) tinh khí xuất ra bên ngoài ắt thành Dương. Nếu giống NHŨ ( lồi), PHỦ ( vòng lên), ĐỘT ( nhô lên), tinh khí đọng lại bên trong ắt thành ÂM.
Trong OA (lõm) có chổ ĐỘT (nhô lên) như vậy gọi là Dương lai Âm thụ.
Phần đầu của NHỦ (chỗ lồi) có OA (chỗ lõm) như vậy gọi là Âm lai Dương thụ.
Dương Mậu Thúc trong Thai Phục Luận viết: Thai Phục là thư, hùng song long. Thai sinh trước hòa hợp với Dương mà sinh Thư. Tinh thần của nó chiếu lên trên. Phục sinh sau, hòa hợp với ÂM mà thành Hùng. Tinh thần của nó chiếu xuống. Nghênh lên cao thì thành Dương. Phủ xuống dưới thấp thì thành Âm.
Lưu Đôn Tố viết: Âm là cường, Dương là nhược. Nhược gần Cường mà sinh thành vạn vật. Âm tính thì cương kình, Dương tính thì nhu hòa.
Lại viết: Dương lấy Âm làm bản tính. Âm lấy Dương làm hình thể. Chủ của Động là Tỉnh, chủ của Tỉnh là Thể. Ở trên trời thì Dương động mà Âm thì tỉnh. Ở dưới đất thì Dương tỉnh mà Âm thì động. Bản tính vì có hình thể mới Tỉnh. Hình thể vì có bản tính mới động.
Núi non hùng vĩ cương cường tính Âm thì lấy chỗ Dương làm trọng. Đồng bằng nhu mì bằng phẳng tính Dương thì lấy Âm làm trọng. Chỗ nhỏ thì làm nơi mộ táng, lớn hơn thì làm nhà ở, lớn hơn nửa thì làm châu quận, tỉnh thành....Biết như thế để có thể giải thích tại sao người xưa ví Núi như Long là con Rồng trong thần thoại. Núi bản chất yên tĩnh thì trọng ở chổ Động. Ví Núi như Long là nhìn núi như con Rồng đang sống, nghĩa là đang có sinh lực dồi dào. Cũng từ quan niệm đó mà các nhà Phong Thủy phân biệt đâu là Sinh Long, đâu là Tử Long. Tử Long là dãy núi thẳng đơ, cứng nhắc như chết. Sinh Long là dãy núi uốn khúc nhấp nhô, lên xuống, sống động....... Nước thì bắt nguồn từ trên Núi cao cho nên nói. Núi là mẹ của Nước hay nói ở đâu có Nước, ở đó có Khí là vì muốn đề cập đến Sinh Long là vậy.
(Một số nhà Phong Thủy cho rằng những nơi ruộng lúa bao la, xanh ngát, chỉ cần một cơn gió nhẹ cũng có thể thấy rõ những làn sóng nhấp nhô sống động tạo thành lườn y như những vẩy Rồng sinh động.)
Khí cũng chính là Nước, vì Nước là Mạch máu của Long. Nhưng để có thể phân biệt rõ thì Khí là sinh lực của Địa thế mà mắt thường không thấy được, ngược lại sinh lực của địa thế có thể thấy được thì đó chính lá Nước vậy.
Tạ Giác Trai trong Đảo Trượng Thi giải thích tiếp:
Hai chữ Âm Dương rất khó làm rõ. Mấy ai hay biết cái tính của tạo hóa trong đó ! Âm nhũ giống như dương vật của người nam. Dương oa giống như sản môn của người nữ. Nếu giống như Âm nhũû của người nam thì không được làm tổn thương phần đầu. Nếu giống như Dương oa của người nữ thì không được làm hỏng hai môi.......
Một không thể sinh ra sự vật mà cần phải có hai. Trường hợp hình thể và khí thế của Long Mạch chạy đến giống như sóng kiếm, như lưng bàn tay úp thì gọi là cô Âm, nếu như bàn tay ngửa thì gọi là độc Dương. Âm Dương cần tương giao với nhau (Giao hợp) nêú không thì y như người Nam không vợ, người Nữ không chồng thì làm sao sinh sôi nảy nở?
Trong Âm phải cầu Dương, trong Dương phải cầu Âm. Âm và Dương cầu giao với nhau mới không bị tuyệt diệt, đất lớn do đó mới được sản sinh.
Cùng một cách nhìn khác của các nhàPhong Thủy thì cao là Âm, thấp là Dương. Địa thế cao vút là Âm. Bằng phẳng, tròn trịa là Dương. Phủ xuống là Âm, ngưỡng diện là Dương. Vật có Mũi Nhọn là Âm, vật có chổ Lõm xuống là Dương.
Trường hợp địa thế trải dài bằng phẳng, không thấy xuất hiện chổ nhô lên nghĩa là không thấy có Âm, nhưng lại thấy xuất hiện các dòng nước hội hợp, tức là đã có Âm tồn tại. Trường hợp này được gọi là trường hợp xảo diệu, địa thế quý vô cùng.
Quan sát thực tế ánh sáng, bóng tối hay ngày và đêm. Chính giữa đêm giờ Tý, Âm hoàn toàn làm chủ thì Dương bắt đầu xuất hiện. Giữa trưa đứng bóng giờ Ngọ, Dương hoàn toàn làm chủ thì Âm bắt đầu xuất hiện. Vì lẽ thế Dịch cho rằng Dương xuất từ Tý, Âm xuất từ Ngọ. Hoặc nói: Gốc của Âm ở trong Dương, gốc của Dương ở trong Âm là vậy.
Âm Mạch thì phải trên nhỏ mà dưới lớn. Dương Mạch thì phải trên lớn dưới nhỏ. Do vậy mỗi khi Dương thở ra khí, vạn vật sinh ra. Một khi Âm hít khí vào thì vạn vật sinh thành.
Đọc lại Địa Lý Bí Truyền của Tả Ao:
. . . . . . . . . .
Mạch có Mạch Âm Mạch Dương,
Mạch nhược, Mạch cường, Mạch tử, Mạch sinh,
Sơn cước Mạch đi rành rành,
Bình dương Mạch lẩn, nhân tình không thông
Có Mạch qua ao, qua sông
Qua đầm, qua núi, qua đồng, qua non. . . . . . .
Đồng bằng Mạch đị thấp nên gọi là Mạch Dương. Sơn cước Mạch đi theo đồi núi cao lớn nên gọi là Mạch Âm. Lại thêm 4 yếu tố để phân định:
- Mạch Cường: Là thế mạch hùng vĩ, cương cường.
- Mạch Nhược: Là thế Mạch thanh nhã, dịu dàng.
- Mạch Sinh: Thế Mạch đi rất sống động như con thú đang quay đầu, vẫy đuôi.
- Mạch Tử: Thế Mạch đi ngay đơ như cán cuốc
Về Cao Thấp thì trên sơn cước thấp một thước cũng gọi là thấp. Ở bình dương cao một tấc cũng gọi là cao.
Âm Dương Hình Khí, Cụ Tả Ao tóm gọn trong hai câu dễ nhớ:
Âm là gò đóng, đất ghềnh
Dương là ruộng phẳng, đất bằng như lai.
NGŨ HÀNH cũng phân biện Âm Dương, Hình và Thể. Ngoài hành Thổ trung ương, 4 hành khác là Kim, Mộc, Thủy và Hỏa. Mỗi vị trí gọi là mỗi Cuộc Long. Đứng trên vị trí xây dựng, nhà ở hoặc mộ táng, nhìn thẳng góc với dòng nước chảy gần nhất, quan sát thấy dòng chảy của Nước từ TRÁI sang PHẢI, thuận theo kim đồng hồ thì KHÍ ở đó là KHÍ DƯƠNG.
Ngược lại nếu dòng chảy của Nước từ PHẢI sang TRÁI thì Khí ở đó là KHÍ ÂM. (Cũng cần nhắc lại Âm Khí thì tìm Dương. Dương khí thì tìm Âm. Bình nguyên thấp một tấc cũng có thể là Dương, cao một tấc cũng có thể là Âm)
1/ KIM cuộc:
Nhìn thấy giòng nước chảy về hướng ĐÔNG. Nghĩa là giòng chảy từ hướng TÂY đến. Hướng TÂY hành KIM nên gọi là: TÂY LONG hay KIM CUỘC LONG.
Nếu thấy giòng nước chảy từ TRÁI sang PHẢI thì Khí thuộc DƯƠNG. Ngược lại thì Khí thuộc ÂM.
Nếu tính từ Vòng Tràng Sinh, Dương KIM trường sinh tại TỴ (Đông Nam). Vượng tại Dậu (Tây) và Mộ tại SỬU ( Đông Bắc). Tràng Sinh,Vượng và Mộ luôn luôn tại 3 vị trí TAM HỢP Tỵ Dậu Sửu tao thành Kim cuộc.
Âm Kim trường sinh tại DẬU (Tây), Vượng tại TỴ (Đông Nam) và Mộ tại SỬU (Đông Bắc).
Nước chảy về Phương nào thì phương đó là phương Mộ khố.
Hình KIM thì TRÒN. Âm Kim phải có dạng TRÒN, đứng, cao hoặc LỒI. Dương Kim phải có dạng TRÒN nằm, phẳng hoặc LÕM.
Nếu thấy Hình và Khí không được chính, thì phải quan sát thêm vì KIM vượng có thể Sinh THỦY. Thủy thì có Hình nhấp nhô sóng nước.
Nhớ lại là Nơi Âm thì đi tìm Dương. Nơi Dương thì đi tìm Âm. Hình củaÂm thì Lồi, Hình của Dương thì Lõm. Vị trí Tốt thường được chọn để xây nhà cửa là Vị trí Trường Sinh hoặc Đế Vượng.
Trường Sinh như cây mới nụ, cần thời gian mới trổ trái ra hoa. Đế Vượng thì như Hoa nỡ rộ, sau đế vượng thì SUY, BỆNH, TỬ. . . .
. Vì thế về lâu dài thì trọng Trường Sinh. Mau chóng thì chọn Đế vượng.
2/ MỘC cuộc:
Nhìn thấy giòng nước chảy về hướng TÂY. Nghĩa là giòng chảy từ hướng ĐÔNG đến. Hướng ĐÔNG hành MỘC nên gọi là: ĐÔNG LONG hay MỘC CUỘC LONG.
Nếu thấy giòng nước chảy từ TRÁI sang PHẢI thì Khí thuộc DƯƠNG. Ngược lại thì Khí thuộc ÂM.
Nếu tính từ vòng Tràng Sinh, Dương Mộc tràng sinh tại HỢI ( Tây Bắc). Vượng tai MÃO ( Đông) và Mộ tại MÙI ( Tây Nam ). Tràng Sinh, Vượng và Mộ luôn luôn tại 3 vị trí tam hợp Hợi Mão Mùi tạo thành Mộc cuộc.
Âm Mộc tràng sinh tại Mão. Vượng tại Hợi và Mộ tại Mùi.
Hình Mộc thì DÀI. Âm Mộc phải có dạng Dài, Đứng, Cao. Dương Mộc phải có dạng Nằm, Dài và thẳng.
Nếu thấy Hình và Khí không được chính, thì phải quan sát thêm vì Mộc vượng có thể đi sinh Hỏa. Hỏa thì có hình Nhọn nhấp nhô.
3/ THỦY cuộc:
Nhìn thấy giòng nước chảy về hướng NAM. Nghĩa là giòng chảy từ hướng BẮC đến. Hướng BẮC hành THỦY nên gọi là: BẮC LONG hay THỦY CUỘC LONG.
Nếu thấy giòng nước chảy từ TRÁI sang PHẢI thì Khí thuộc DƯƠNG. Ngược lại thì Khí thuộc ÂM.
Nếu tính từ Vòng Tràng Sinh, Dương THỦY trường sinh tại THÂN (Tây Nam),Vượng tại TÝ ( Bắc) và Mộ tại THÌN ( Đông Nam). Tràng Sinh, Vượng và Mộ luôn luôn ở vị trí TAM HỢP Thân Tý Thìn tạo thành Thủy cuộc.
Âm thủy tràng sinh tại Tý ( Bắc). Vượng tại Thân ( Tây Nam ) và Mộ tại Thìn ( Đông Nam).
Hình THỦY thì nhấp nhô sóng nước. Âm Thủy phải có dạng Đứng, cao. Dương Thủy phải có dạng Nằm hoặc Lõm.
Nếu thấy hình và khí không được chính, thì phải quan sát thêm là vì Thủy Vượng có thể đi sinh Mộc. Mộc thì có Hình thẳng và dài.
4/ HỎA cuộc:
Nhìn thấy giòng nước chảy về hướng BẮC. Nghĩa là giòng chảy từ hướng NAM đến. Hướng Nam hành HỎA nên gọi là: NAM LONG hay HỎA CUỘC LONG.
Nếu thấy giòng nước chảy từ TRÁI sang PHẢI thì Khí thuộc DƯƠNG. Ngược lại thì Khí thuộc ÂM.
Nếu tính từ vòng Tràng sinh, Dương HỎA tràng sinh tại Dần ( Đông Bắc). Vượng tại NGỌ ( Nam ) và Mộ tại Tuất ( Tây Bắc). Tràng sinh, Vượng và Mộ luôn luôn tại 3 vị trí tam hợp Dần Ngọ Tuất tạo thành Hỏa cuộc
Âm Hỏa tràng sinh tại Ngọ ( Nam ), vượng tại Dần ( Đông Bắc) và Mộ tại Tuất ( Tây Bắc).
Nước chảy về phương nào thì phương đó là Mộ khố.
Hình Hỏa thì Nhọn, nhấp nhô. Âm hỏa phải Cao, nhọn. Đương Hỏa nằm phẳng và góc cạnh.
Nếu thấy Hình và Khí không được chính, thì phải quan sát thêm vì Hỏa vượng có thể đi sinh Thổ. Thổ thì có hình Vuông vức.
Nguồn: http://thegioivohinh.com/diendan/showthread.php?4647-Âm-dương-Hình-lý-trong-địa-lý-dương-trạch
Từ hàng ngàn năm trước, con người đã ý thức được rằng các yếu tố thiên nhiên ảnh hưỡng rất lớn đến họa phúc và có thể quyết định vận mạng con người. Ngay từ thời kỳ hang động, con người đã phải biết phục tùng, thích ứng với thiên nhiên để có thể sinh tồn và phát triển. Con người đã nhận thấy chỗ cư trú cần phải được che chắn để có thể tránh được gió từ phương Bắc. Đồng thời, hai bên hông cũng cần che chắn đủ để nơi cư trú được ấm hơn. Theo quan niệm của Khoa Phong Thủy, từ nguyên thủy, con người phát sinh từ phương Bắc, cho nên một số tài liệu lưu truyền lại đều cho rằng nhà cửa phải hướng về phương Nam mới tốt. Quan niệm này chỉ đúng một phần, là vì, quả thật gió từ phương Bắc quá lạnh. Con người đã biết phải dựa vào núi làm nơi cư trú, cho nên nhà cửa phải chọn hướng Nam. Đồng thời cũng theo truyền thuyết, ngày xưa những dân tộc ở phương Nam, người Trung Hoa thường gọi là rợ Nam cần phải được khai hóa. Các đền đài vua chúa đều quay về hướng Nam là chỉ để tiêu biểu cho sự mong ước thống trị toàn phương Nam của các triều đại ngày xưa. Càng ngày con người càng biết thích ứng với thiên nhiên, càng biết cải tạo những điều kiện hiện có của thiên nhiên để có thể tồn tại. Những kinh nghiệm thực tế được lưu truyền, tích lũy từ đời này sang đời khác, khắc sâu vào lòng người, ảnh hưỡng rộng khắp trong cuộc sống, tác động vào tâm lý và hành động của con người và đó mới là tiền đồ căn bản của Thuật Phong Thủy. Phong chính là gió và Thủy chính là nước . Gió và nước là hai yếu tố thiên nhiên vốn luôn luôn động. Đồi núi đất đai thì vốn luôn luôn tĩnh. Sự chuyển động không ngừng của hai yếu tố gió và nước đã làm thay đổi, ảnh hưỡng đến hình thể vốn cố định của đồi núi đất đai. Con người đã biết dựa lưng vào núi để tránh gió là vì kinh nghiệm cho thấy hể đâu có gió thổi vào y rằng chỗ đó xấu, nhiều tai họa sẽ đến. Chỗ nào tốt, có sinh khí là những chỗ có nước tụ lại hoặc những chỗ có núi ôm vòng bao bọc trước sau để có thể che chắn được gió. Thế nhưng, hai thể gió và nước lại không thể tách rời được nhau là vì chỗ nào có gió mà không có nước thì chỗ đó lại bị cằn khô. Chỗ nào có nước mà gió đến thì chỗ đó sinh khí bị tiêu tán và nơi đó sẽ bị lạnh lẽo. Chỗ nào có nước tụ lại mà gió tán đi thì chỗ đó có sinh khí, đất đai màu mỡ, ấm áp, cây cỏ tốt tươi. Nước và núi thì hữu hình nhưng gió thì lại vô hình cho nên phải nhìn vào thế đi của nước và núi mới có thể biết được gió đi hay tán.
Quả thật trong thiên nhiên, hai yếu tố gió và nước ảnh hưỡng thật lớn lao . Gió có thể đem phấn hoa để cây cối đơm bông kết nụ. Nước có thể đem sức sống, nuôi dưỡng cho vạn vật và con ngưởi. Nhưng gió có thể giận dũ trở thành những cơn bão gào thét tàn phá núi rừng. Nước có thể trở thành những cơn lũ san bằng làng xóm thành bình địa.
- Phía sau là núi, gọi là Huyền Võ.
- Bên trái là Thanh Long.
- Bên phải là Bạch Hổ.
- Trước mặt là Chu Tước.
Huyền Võ cần phải cao và dày để ngăn chận được gió.
Phải và trái cần đủ kín để che chắn hai bên hông.
Nghĩa là: Chổ cư trú cần vững chắc gần y như ghế dựa.
Thế nhưng, một nơi được gọi là tốt lành cho con người xây dựng nhà cửa để cư trú, yếu tố chắn Gió chỉ là thứ yếu. Yếu tố Nước mới là quan trọng, vì ở đâu có Nước, ở đó mơí có Khí. Hoặc ở đâu Nước dừng thì ở đó Khí mới Tụ. Nhất Tụ Khí, Nhì mới Tàng Phong là vậy.
Vô Tình
Nước có 5 dạng xấu . Gọi là Ngũ Hung của nước:
- Bạo là nước chảy ào ạt.
- Liêu là nước chảy lênh láng.
- Trọc là nước đục ngầu.
- Lại là nước chảy xiết.
- Than là nước chảy xối xã.
Núi cũng có 5 dạng xấu của núi. Gọi là Ngũ Hung của núi:
- Đồng là núi trọc.
- Đoạn là núi đứt.
- Thạch là núi đá.
- Quá là núi vượt quá hình thể
- Độc là núi đơn côi.
Núi dẩn nước mà Khí là mẹ của nước. Khí chuyển động cho nên nước chuyển động theo. Theo quan niệm của khoa Phong Thủy, ban đầu chỉ có Khí, đầu tiên hóa thành nước, nước tích tụ tạp chất hóa thành núi .
Vậy là: Nổi lên mặt đất mà trông thấy vết tích đó là nước, chuyển động trong lòng đất mà không thấy hình đó là khí, cho nên xem nước từ đâu đến là biết khí bắt nguồn từ đâu là vậy.
Ngoài quan niệm Khí, nước chính là hình ảnh của các dòng sông. Ngày xưa, nước uống nuôi sống con người, tạo thức ăn thủy sản và sông ngòi thì còn là phương tiện chính để di chuyển .Bởi thế, sau này các nhà phong thủy đã xem con đường mang một phần tính chất của giòng sông trong sự chuyển động của khí là vì vậy.
Những nơi cư trú tốt là những nơi có núi ôm vòng trở lại, có nước bao quanh. Lớn thì xây dựng Quốc Gia, vừa thì làm đô thị, nhỏ thì xây dựng xóm làng, nhỏ nữa thì làm nơi an táng, nghĩa địa. Nhà cửa đất đai lớn nhỏ có khác nhau nhưng hung họa thì lại giống nhau. Nên chọn cư ngụ những nơi núi lớn , sông lớn giao hội. Những nơi nhiều núi thì tìm những chổ bằng phẳng. Ở bình nguyên thì tìm nơi có sông, có nước. Nơi sơn lâm thì tìm chổ kín gió. Những nơi núi bỗng dưng nghiêng chệch hướng ra phía khác thì rõ ràng đó không phải là nơi tốt lành. Các nhà Phong Thủy chuộng những nơi long mạch phải dài, chổ phải thoáng rộng, thủy lưu phải uốn lượn vòng vèo và phải giao hội. Những nơi có núi như hộ vệ hai bên chắp tay vái chào nhau là những nơi nhất định được bình yên, tốt lành.
Lưu Ý những nơi cần tránh làm chổ cư trú:
Nơi quá cận núi
Nơi núi đâm thẳng
Nơi núi đứt đoạn
Nơi núi vô tình quay lưng lại
Nơi nước đâm thẳng
Nơi nước chảy ào ạt:
Nơi nước vô tình:
Nơi nước chảy đi (Tán): Nước chảy đi là nước tẻ làm đôi.
Nước đến là nước 2 giòng nhập lại một (Tụ)
Hãy dùng nhản giới mà quan sát, hãy dùng tâm mà định nhận. Bình nguyên thì cao hơn một chút cũng là chân long. Chổ cao thì nhìn núi, chổ bằng phẳng thì nhìn sông.
ÂM DƯƠNG
Âm dương là biểu hiện của tỉnh và động. Trời dương thì động, đất âm thì tỉnh. Âm dương tỉnh động, đầy vơi, lên xuống, sáng tối, lạnh nóng. . . . . . hai thể không tách rời được nhau. Con người là do khí âm dương sinh ra, do đó con người phải biết thuận theo âm dương: thuận thì sống, chống lại thì chết.
Thuật phong thủy căn bản từ Dịch Lý, cho rằng Âm Dương vốn để biễu hiện sáng và tối. Phía mặt trời là ánh Sáng (dương). Quay lưng lại phía mặt trời là bóng tối (âm). Mặt trời khởi từ Tý, lớn ở Mão và Vượng ở Ngọ. Tý làø giữa đêm, Ngọ là giữa trưa. Từ giờ ngọ, bóng tối bắt đầu xuất hiện, lớn ở Dậu và vượng ở Tý. Bởi thế, âm cực thì sinh dương, dương cực thì sinh âm hay dương sinh từ Tý, Âm sinh từ Ngọ là vậy.
Thái Cực
Lưỡng Nghi
Âm Dương
Tứ Tượng
Biểu hiện trong âm có dương, trong dương có âm.
Hay Thái cực sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh tứ tượng. Theo chiều thuận kim đồng hồ, Dương sinh ở bên trái, Âm sinh từ bên phải.
Nét liền ( ) biểu thị cho Dương.
Nét đứt ( ) biểu thị cho Âm.
Dương là đàn ông bên tay trái.
Âm là đàn bà bên tay phải.
Như vậy:
Thanh Long thuộc dương.
Bạch Hổ thuộc âm.
Âm Dương sáng tối sinh ra ngày đêm. Ngày đến đêm, đêm đến ngày sinh ra bốn mùa xuân hạ thu đông không bao giờ dứt. Âm Dương đầy khắp trong vũ trụ, luôn luôn tác động, ảnh hưởng hết mọi loài.
Hình và Khí:
Hoàng Công Tổ Sư dạy phép dương trạch trong Thiên tinh tâm pháp có nhắc : Một âm một dương gọi là đạo.Một động một tỉnh gọi là khí. Một đến một đi gọi là vận. như vậy người chỉ mới nhắc về khí chứ chưa nói về hình. Vì hình và khí thì hoàn toàn khác biệt. Khí âm thì tỉnh mà hình lại cương cường. Khí dương thì động mà hình lại nhu mì, không cương mãnh. Bởi thế các nhà Phong thủy đã căn cứ vào hình để luận về khí vì khí đã được thể hiện bởi hình.
Hãy nhìn vào dạng của Nước thì rõ biết. Khí âm càng nhiều thì nước càng vón cục, đặc cứng. Khí dương càng lớn thì nước lõng chảy nhu mì, uyển chuyển. Cho nên, càng về phía Bắc, âm khí càng nhiều núi càng cao càng cương mảnh. Càng dần về phía Nam, khí dương lấn át khí âm, cho nên đất đai bằng phẳng ít núi ít đồi. Trời dương thì có mây có gió, đất âm thì có núi có sông. Con người ỏ giữa trời và dất nên cũng phải có cửa có nhà. Dù to nhỏ khác nhau, hình dạng có khác nhau và ngay cả những người ngụ cùng chung một nhà cũng có thiện ác khác nhau. Con người phải biết những quy luật biến hóa của âm dương để thuận theo. Thuận thì yên, nghịch thì không yên, suy thoái.
Cao thì Khí Âm
Bằng phẳng thì Khí Dương
NGŨ HÀNH:
Trong vũ trụ, không gì ngoài năm thể là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ gọi là ngũ hành.
Kim là kim loại - màu trắng - hình tròn.
Mộc là cây cối - màu xanh - hình thẳng.
Thủy là nước lỏng - màu đen - hình uốn lượn.
Hỏa là lửa - màu đỏ - hình nhọn.
Thổ là đất đai – màu vàng - hình vuông.
Kim sinh thủy – Thủy sinh mộc – Mộc sinh hỏa – Hỏa sinh thổ – Thổ sinh kim, gọi là vòng tương sinh.
Kim khắc mộc – Mộc khắc thổ – Thổ khắc thủy – Thủy khắc hỏa – Hỏa khắc kim, gọi là vòng tương khắc.
Ngũ hành quý ở sự hài hòa, tương hợp, vì vậy luật THAM SINH KỴ KHẮC luôn luôn được tận dụng trong khoa Dịch Lý nói chung, Địa lý nói riêng.
Ví dụ:
Kim đang khắc Mộc, nhưng nếu có Thủy xen vào thì Kim sẽ thích đi sinh Thủy, không còn đi khắc Mộc nữa. Đồng thời khi đó Thủy đủ lực để đi sinh Mộc. Mộc không còn bị Kim khắc.
Đặc biệt, trường hợp hai khí cùng một hành mà gặp nhau thì gọi là ngũ hành tương ngộ.
Ví dụ:
Phương nam mà có hỏa hình. Hay hỏa gặp hỏa lắm điều kiện tụng.
Phương bắc mà có thủy hình. Hay thủy gặp thủy thì tính sẽ dâm.
Phương mộc mà có mộc hình. Hay mộc gặp mộc thì phú quý,yên lành.
Phương kim mà gặp kim hình. Hay kim gặp kim thì giàu sang.
Phương thổ mà gặp thổ hình. Hay thổ gặp thổ thì tính sẽ ngu.
Ngũ hành tương ngộ thường gặp trong đia lý dương trạch, cho nên cần phải lưu ý rất nhiều.
Thuật phong thủy cho rằng Ngũ Hành là Cương Lĩnh của âm dương, là quyền năng của tạo hóa. Tất cả đều phải dựa vào ngũ hành mới có thể biện phương lập hướng.
Như vậy, ngay sau khi chọn được địa điểm xây dựng nhà, điều trước tiên phải nhận định cho đúng khu vực thuộc hành gì bằng cách xem xét núi non, cảnh vật chung quanh để sao cho được ngũ hành tương sinh. Ví dụ: Núi hành kim, kim sẽ đi sinh thủy. Kiểu nhà hành thủy sẽ được đại lợi.
Ví dụ:
Núi hành mộc, mộc sẽ sinh hỏa. Kiểu nhà hành hỏa sẽ được đại lợi.
Theo quan niệm của đông phương, Người thì có tóc, nhà thì có nóc. Căn cứ vào hình dạng của nóc hay mái nhà dể định ngũ hành.
BÁT QUÁI và PHƯƠNG HƯỚNG:
La Bàn: Muốn biết chính xác phương hướng, Ngoài cách nhìn tính phương hướng của SAO trên trời, cách này đòi hỏi nhiều kinh nghiệm thực tế. Cách đơn giản và thực dụng nhất hiện nay là cách sử dụng la bàn.
Trên mặt của la bàn, mủi tên luôn luôn chỉ về hướng Bắc. Cho dù ở vị trí nào, hướng bắc phải được xác định trước rồi lần lượt theo chiều kim đồng hồ để xác định hướng Đông, tiếp theo là hai hướng Nam và Tây.
Giữa Bắc và Đông là hướng Đông Bắc.
Giữa Đông và Nam là hướng Đông Nam.
Giữa Nam và Tây là hướng Tây Nam.
Giữa Tây và Bắc là hướng Tây Bắc.
Tám hướng theo La bàn ứng với 8 quẻ gọi là Bát quái:
Quẻ Càn: Ba vạch liền: Hướng Tây Bắc ( Tuất-hợi)
Quẻ Khảm: Vạch giữa liền: Hướng chính Bắc ( Tý )
Quẻ Cấn: Vạch trên liền: Hướng Đông Bắc ( Sửu–Dần )
Quẻ Chấn: Vạch dưới liền: Hướng chính đông ( Mão )
Quẻ Tốn: Vạch dưới đứt: Hướng Đông Nam ( Thìn-Tỵ )
Quẻ Ly: Vạch giữa đứt: Hướng chính Nam ( Ngọ )
Quẻ Khôn: Ba vạch đứt: Hướng Tây Nam ( Mùi-Thân )
Quẻ Đoài : Vạch trên đứt: Hướng chính Tây ( Dậu )
Cần phân biệt rỏ 2 loại bát quái: Bát quái Tiên Thiên và Bát quái Hậu Thiên.
Bát quái Tiên thiên hay gọi là Phục Hy Tiên thiên Bát quái đồ thứ tự theo tám quẻ:
1 Càn - 2 Đoài - 3 Ly - 4 Chấn - 5 Tốn - 6 Khảm - 7 Cấn - 8 Khôn
Bát quái Hậu thiên hay goị là Văn Vương Hậu Thiên Bát quái đồ. Thứ tự theo tám quẻ:
1 Càn - 2 Khảm - 3 Cấn - 4 Chấn - 5 Tốn - 6 Ly - 7 Khôn - 8 Đoài
Trong khoa địa lý phong thủy, Bát Quái Hậu Thiên được sử dụng phù hợp với vạn vật đã sinh. Phương hướng thực tế, la bàn hoàn toàn phù hợp với cách bố trí các quẻ trong hậu thiên bát quái.
Một số ý nghĩa của các quẻ liên quan về phương hướng và người:
Quẻ Càn ba vạch toàn dương, hành KIM, tượng trưng cho Cha, phương tây bắc tuất hợi.
Quẻ Khảm vạch giữa liền, hành THỦY tượng trưng cho con trai giữa, phương chính bắc, Tý.
Quẻ Cấn vạch trên liền, hành THỔ tượng trưng cho con trai út, phương đông bắc, sửu dần.
Quẻ Chấn vạch dưới liền, hành MỘC tượng trưng cho con trai trưởng, phương chính đông, mão.
Quẻ Tốn vạch dưới đứt, hành MỘC tượng trưng cho con gái trưởng, phương đông nam, thìn tỵ.
Quẻ Ly vạch giữa đứt, hành HỎA tượng trưng cho con gái giữa, phương chính nam, ngọ.
Quẻ Khôn ba vạch đều đứt, hành THỔ tượng trưng cho Mẹ, phương tây nam, mùi thân.
Quẻ Đoài vạch trên liền, hành KIM tượng trưng cho con gái út, phương chính tây, dậu.
Lưu ý:
Phần căn bản về Bát Quái, cần học đi học lại nhiều lần mới nhớ được. Phần nầy không thuộc được thì sẽ gặp nhiều khó khăn ở các phần sau.
Một số kinh nghiệm tồn động từ đời này sang đời khác, ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống hàng ngày:
1) Đất Cao/Thấp: Nhà ở trong một khu vực phía cao, phía thấp thì cần phân biệt các trường hợp:
- Phía đông cao, phía tây thấp là vị trí tốt lành, không cần phân biệt trước hay sau nhà. Gọi là có nhiều sinh khí.
- Phía tây cao, phía đông thấp là vị trí xấu, không tốt cho việc xây dựng nhà ở, kinh doanh. Gọi là đất không có sinh khí.
- Phía bắc cao, phía nam thấp là vị trí tốt lành cho việc xây nhà ở. Ngược lại,ø phía bắc thấp , phía nam cao là vị trí không tốt lành cho việc xây dựng nhà ở, kinh doanh.
Những hướng còn lại đều cần phần đất phía sau nhà phải cao hơn phía trước mới gọi là tốt lành.
2) Rộng/Hẹp:
Phía đằng sau nhà, đất đai rộng hơn phía trước là tốt lành. Phía sau đất đai hẹp hơn phía trước là tiền kiết hậu hung, xấu.
3) Lồi/Khuyết:
Hướng Bắc hay là hướng tý cần cao và hướng nam hay hướng ngọ cần thấp, nhưng cả hai hướng đều không được khuyết. Khuyết thì nhà cửa sẽ đơn cô.
Các hướng đông, tây dù cho bị khuyết cũng không sao. Chỉ cần phía đông cao hơn phía tây là đủ.
Tuy nhiên không gì tốt hơn một vị trí đất đai bằng phẳng, phía đằng sau có núi, phía đằng trước có sông. Sinh khí sẽ đầy tràn.
4) Trái/Phải:
Khi xây dựng nhà cửa, sau khi xem xét kỷ vị trí, đất đai cao thấp không đều thì nên chọn phía bên trái cần cao hơn phía bên phải. Vì bên trái là tay long, hành mộc thuộc Dương. Bên tay phải là tay hổ, hành kim thuộc Âm. Dương càng nhiều thì sinh khí càng lớn, phước lộc càng dồi dào. Tuy nhiên, trong phong thủy địa lý rất cẩn trọng sự hài hòa. Dương hay âm thái quá đều không tốt. Trong dương cần có âm, trong âm cần có dương là vậy
Đường Cái:
Những ngôi nhà sát cạnh sông hồ sẽ nhận trực tiếp KHÍ THỦY của sông hồ, nhưng những con đường dẫn đến nhà cũng ảnh hưởng đến ngôi nhà không ít. Kinh nghiệm cho thấy những ngôi nhà bị đường đâm thẳng vào thường bị nhiều bất ổn, không yên. Tuy nhiên, không phải người nào cũng bị ảnh hưởng mà tùy phương hướng nào cuả ngôi nhà bị đường đâm vào thì phương đó mới bị tổn thương.
Đường đâm vào phương Càn
Tây Bắc - Tuất Hợi thì người cha trong gia đình sẽ bị tổn hại.
Đường đâm vào phương Khảm
Bắc - Tý, thì tổn hại cho người con trai giữa.
Đường đâm vào phương Cấn
Đông Bắc - Sửu Dần, thì tổn hại cho người con trai út.
Đường đâm vào phương Chấn
Chính Đông - Mão thì tổn hại cho người con trai trưởng.
Đường đâm vào phương Tốn
Đông Nam- Thìn Tỵ thì tổn hại cho người con gái đầu.
Đường đâm vào phương Ly
Chính Nam – Ngọ thì tổn hại cho người con gái giữa.
Đường đâm vào phương Khôn
Tây Nam - Mùi Thân thì sẽ tổn hại cho người Mẹ.
Đường đâm vào phương Đoài
Chính Tây - Dậu thì sẽ tổn hại cho người con gái út.
Đường cần ôm vòng lấy ngôi nhà nhưng không được ôm quá siết, quá chặt. Phía Nam của ngôi nhà mà có đường là ngôi nhà đại lợi. Phía đông, bắc có đường thì không được tốt. Riêng tại hướng đông nam của nhà ở mà có ngã ba đường cái thì được sinh khí dồi dào, làm ăn thịnh vượng. Phía đông có sông có biển thì lại tốt hơn nữa.
HÌNH và KHÍ
Khí thì dựa vào tượng để thành hình và Hình thì để thể hiện Khí. Hình và Khí hoàn toàn khác biệt nhưng lại không thể tách rời được nhau. Muốn biết Khí thì phải dựa vào Hình.
Thế nhưng mấy ai rõ biết?
Hãy quan sát núi non trùng trùng, điệp điệp ở phương Bắc và bình nguyên rộng lớn trải dài ở phương Nam. Phương Bắc lạnh lẽo, âm khí thì nhiều. Phương Nam nắng ấm dương khí cùng khắp. Âm thì lạnh, tỉnh. Dương thì nóng, động. Khí Âm thì Trầm, Khí Dương thì Phù.
ÂM DƯƠNG
Bắc Nam
Lạnh Nóng
Tĩnh Động
Trầm Phù
Càng về Phương Bắc Âm khí càng lớn thì núi non càng hùng vĩ, càng về Phương Nam, Dương khí càng nhiều thì núi non càng hiếm, đất đai bằng phẳng. Khí âm thì nhu, trầm nhưng Hình thì cương cường bạo liệt. Khí Dương thì cương, phù, nhưng Hình thì nhu mì bằng phẳng.
Phong là Gió, là nộ khí của trời đất. Gió càng lớn thí Âm khí càng nhiều. Sấm thuộc Dương khí cho nên mổi khi thấy Sấm động thì Bảo sắp dứt. Có phải là Âm khí của Bảo bị Dương đánh tan hay không? Bởi thế, càng ở chổ cao, thì gió càng lớn. Ởû Phương Bắc, Âm khí thì nhiều mà khí Dương thì thường yếu kém không đủ, cho nên hình thể là núi non trùng điệp, cương cường. Ở phương Nam khí Dương thì nhiều, khí Âm thì yếu kém không đủ, cho nên hình thể bằng phẳng nhu mì.
Lê quý Đôn trong Vân Đài Loại Ngữ thêm: Ở Phương Bắc, trời tiết chưa rét lắm mà Nước đã đông đặc thành băng, bởi lẽ khí Dương qúa yếu kém không đủ để lấn át khí Âm. Ở phương Nam, Dương khí thì nhiều lấn át khí Âm, khí âm thường tan biến phía dưới, cho nên nước không thể đông đặc đóng thành băng được.
Hình và Khí như vậy là đã rõ
Những nơi Âm khí nhiều thì Hình cương cường bạo liệt. Những nơi Dương khí nhiều thì Hình nhu mì bằng phẳng.
Trời thuộc Dương cho nên Hình thì động mà Khí thì tỉnh.
Đất thuộc Âm cho nên Hình thì tĩnh mà Khí thì động.
Dịch lấy Âm Dương hai khí làm trọng. Trong Âm phải có Dương, trong Dương phải có Âm. Có Âm hay có Dương thì không thể tồn tại. Phong Thủy thì coi trọng Hình thể. Núi non cương mãnh thì Dụng là Dương nhưng cái Thể là Âm. Bình nguyên rộng khắp, nhu mì thì Dụng là Âm nhưng cái Thể là Dương. Rõ ràng Âm Dương, Hình và Khí hoàn toàn vẫn không thể tách rời được nhau.
Hãy nhìn kỹ bàn tay xấp ngửa để hình dung. Bàn tay xấp thuộc Âm nhưng Hình thì gồ ghề, dáng cương mãnh hiển lộ, rõ ràng không chút ẩn giấu. Bàn tay ngửa thuộc Dương nhưng Hình thì bằng phẳng nhu mì, mềm mại. . . . . .
Hoặc cũng có thể hình dung trạng thái của Nước. Âm khí nhiều thì nước vón cục thành đá cứng nhắc, Dương khí nhiều thì nước nhu mì, uyển động.
A Lý Toàn Thư của Lê Bá Ôn có ghi lại phần giải đáp giữa Dương Quân Tùng và Sư Nhất Hạnh.
Tăng hỏi: Âm là gì? Dương là gì?
Dương công đáp: Hai chữ Âm Dương là cốt lõi của phong thủy, là Hình và Khí được tạo rồi hóa mà thành. Dương khí có hình dạng lõm (OA ), Âm Khí cò hình dạng lồi (ĐỘT). Âm biến thì hóa thành Dương, Dương biến thì hóa thành Âm. Nếu Dương long đến thì Âm thụ huyệt. Nếu Âm long đến thì Dương thụ huyệt hay Âm lai thì Dương thụ, Dương lai thì âm thụ. Âm Dương, Hình, Khí, đạo lý của tạo hóa là như vậy.
Lại hỏi: Âm lai Dương thụ là gì?
Dương công đáp: Mạch có sóng lưng, khi tiến nhập vào chổ huyệt có chổ lõm thì gọi là Âm lai Dương thụ.
Lại hỏi: Dương lai Âm thụ là gì?
Dương công đáp: Thế đến của Mạch tương đối bình hòa, chổ lồi chính là chổ nhập huyệt. Thì gọi là Dương lai Âm thụ.
Họ Trúc giãi thích thêm: Phàm là địa hình có thể thụ huyệt, nếu giống OA (lõm), KIỀM (kẹp), PHỆ (mở ra) tinh khí xuất ra bên ngoài ắt thành Dương. Nếu giống NHŨ ( lồi), PHỦ ( vòng lên), ĐỘT ( nhô lên), tinh khí đọng lại bên trong ắt thành ÂM.
Trong OA (lõm) có chổ ĐỘT (nhô lên) như vậy gọi là Dương lai Âm thụ.
Phần đầu của NHỦ (chỗ lồi) có OA (chỗ lõm) như vậy gọi là Âm lai Dương thụ.
Dương Mậu Thúc trong Thai Phục Luận viết: Thai Phục là thư, hùng song long. Thai sinh trước hòa hợp với Dương mà sinh Thư. Tinh thần của nó chiếu lên trên. Phục sinh sau, hòa hợp với ÂM mà thành Hùng. Tinh thần của nó chiếu xuống. Nghênh lên cao thì thành Dương. Phủ xuống dưới thấp thì thành Âm.
Lưu Đôn Tố viết: Âm là cường, Dương là nhược. Nhược gần Cường mà sinh thành vạn vật. Âm tính thì cương kình, Dương tính thì nhu hòa.
Lại viết: Dương lấy Âm làm bản tính. Âm lấy Dương làm hình thể. Chủ của Động là Tỉnh, chủ của Tỉnh là Thể. Ở trên trời thì Dương động mà Âm thì tỉnh. Ở dưới đất thì Dương tỉnh mà Âm thì động. Bản tính vì có hình thể mới Tỉnh. Hình thể vì có bản tính mới động.
Núi non hùng vĩ cương cường tính Âm thì lấy chỗ Dương làm trọng. Đồng bằng nhu mì bằng phẳng tính Dương thì lấy Âm làm trọng. Chỗ nhỏ thì làm nơi mộ táng, lớn hơn thì làm nhà ở, lớn hơn nửa thì làm châu quận, tỉnh thành....Biết như thế để có thể giải thích tại sao người xưa ví Núi như Long là con Rồng trong thần thoại. Núi bản chất yên tĩnh thì trọng ở chổ Động. Ví Núi như Long là nhìn núi như con Rồng đang sống, nghĩa là đang có sinh lực dồi dào. Cũng từ quan niệm đó mà các nhà Phong Thủy phân biệt đâu là Sinh Long, đâu là Tử Long. Tử Long là dãy núi thẳng đơ, cứng nhắc như chết. Sinh Long là dãy núi uốn khúc nhấp nhô, lên xuống, sống động....... Nước thì bắt nguồn từ trên Núi cao cho nên nói. Núi là mẹ của Nước hay nói ở đâu có Nước, ở đó có Khí là vì muốn đề cập đến Sinh Long là vậy.
(Một số nhà Phong Thủy cho rằng những nơi ruộng lúa bao la, xanh ngát, chỉ cần một cơn gió nhẹ cũng có thể thấy rõ những làn sóng nhấp nhô sống động tạo thành lườn y như những vẩy Rồng sinh động.)
Khí cũng chính là Nước, vì Nước là Mạch máu của Long. Nhưng để có thể phân biệt rõ thì Khí là sinh lực của Địa thế mà mắt thường không thấy được, ngược lại sinh lực của địa thế có thể thấy được thì đó chính lá Nước vậy.
Tạ Giác Trai trong Đảo Trượng Thi giải thích tiếp:
Hai chữ Âm Dương rất khó làm rõ. Mấy ai hay biết cái tính của tạo hóa trong đó ! Âm nhũ giống như dương vật của người nam. Dương oa giống như sản môn của người nữ. Nếu giống như Âm nhũû của người nam thì không được làm tổn thương phần đầu. Nếu giống như Dương oa của người nữ thì không được làm hỏng hai môi.......
Một không thể sinh ra sự vật mà cần phải có hai. Trường hợp hình thể và khí thế của Long Mạch chạy đến giống như sóng kiếm, như lưng bàn tay úp thì gọi là cô Âm, nếu như bàn tay ngửa thì gọi là độc Dương. Âm Dương cần tương giao với nhau (Giao hợp) nêú không thì y như người Nam không vợ, người Nữ không chồng thì làm sao sinh sôi nảy nở?
Trong Âm phải cầu Dương, trong Dương phải cầu Âm. Âm và Dương cầu giao với nhau mới không bị tuyệt diệt, đất lớn do đó mới được sản sinh.
Cùng một cách nhìn khác của các nhàPhong Thủy thì cao là Âm, thấp là Dương. Địa thế cao vút là Âm. Bằng phẳng, tròn trịa là Dương. Phủ xuống là Âm, ngưỡng diện là Dương. Vật có Mũi Nhọn là Âm, vật có chổ Lõm xuống là Dương.
Trường hợp địa thế trải dài bằng phẳng, không thấy xuất hiện chổ nhô lên nghĩa là không thấy có Âm, nhưng lại thấy xuất hiện các dòng nước hội hợp, tức là đã có Âm tồn tại. Trường hợp này được gọi là trường hợp xảo diệu, địa thế quý vô cùng.
Quan sát thực tế ánh sáng, bóng tối hay ngày và đêm. Chính giữa đêm giờ Tý, Âm hoàn toàn làm chủ thì Dương bắt đầu xuất hiện. Giữa trưa đứng bóng giờ Ngọ, Dương hoàn toàn làm chủ thì Âm bắt đầu xuất hiện. Vì lẽ thế Dịch cho rằng Dương xuất từ Tý, Âm xuất từ Ngọ. Hoặc nói: Gốc của Âm ở trong Dương, gốc của Dương ở trong Âm là vậy.
Âm Mạch thì phải trên nhỏ mà dưới lớn. Dương Mạch thì phải trên lớn dưới nhỏ. Do vậy mỗi khi Dương thở ra khí, vạn vật sinh ra. Một khi Âm hít khí vào thì vạn vật sinh thành.
Đọc lại Địa Lý Bí Truyền của Tả Ao:
. . . . . . . . . .
Mạch có Mạch Âm Mạch Dương,
Mạch nhược, Mạch cường, Mạch tử, Mạch sinh,
Sơn cước Mạch đi rành rành,
Bình dương Mạch lẩn, nhân tình không thông
Có Mạch qua ao, qua sông
Qua đầm, qua núi, qua đồng, qua non. . . . . . .
Đồng bằng Mạch đị thấp nên gọi là Mạch Dương. Sơn cước Mạch đi theo đồi núi cao lớn nên gọi là Mạch Âm. Lại thêm 4 yếu tố để phân định:
- Mạch Cường: Là thế mạch hùng vĩ, cương cường.
- Mạch Nhược: Là thế Mạch thanh nhã, dịu dàng.
- Mạch Sinh: Thế Mạch đi rất sống động như con thú đang quay đầu, vẫy đuôi.
- Mạch Tử: Thế Mạch đi ngay đơ như cán cuốc
Về Cao Thấp thì trên sơn cước thấp một thước cũng gọi là thấp. Ở bình dương cao một tấc cũng gọi là cao.
Âm Dương Hình Khí, Cụ Tả Ao tóm gọn trong hai câu dễ nhớ:
Âm là gò đóng, đất ghềnh
Dương là ruộng phẳng, đất bằng như lai.
NGŨ HÀNH cũng phân biện Âm Dương, Hình và Thể. Ngoài hành Thổ trung ương, 4 hành khác là Kim, Mộc, Thủy và Hỏa. Mỗi vị trí gọi là mỗi Cuộc Long. Đứng trên vị trí xây dựng, nhà ở hoặc mộ táng, nhìn thẳng góc với dòng nước chảy gần nhất, quan sát thấy dòng chảy của Nước từ TRÁI sang PHẢI, thuận theo kim đồng hồ thì KHÍ ở đó là KHÍ DƯƠNG.
Ngược lại nếu dòng chảy của Nước từ PHẢI sang TRÁI thì Khí ở đó là KHÍ ÂM. (Cũng cần nhắc lại Âm Khí thì tìm Dương. Dương khí thì tìm Âm. Bình nguyên thấp một tấc cũng có thể là Dương, cao một tấc cũng có thể là Âm)
1/ KIM cuộc:
Nhìn thấy giòng nước chảy về hướng ĐÔNG. Nghĩa là giòng chảy từ hướng TÂY đến. Hướng TÂY hành KIM nên gọi là: TÂY LONG hay KIM CUỘC LONG.
Nếu thấy giòng nước chảy từ TRÁI sang PHẢI thì Khí thuộc DƯƠNG. Ngược lại thì Khí thuộc ÂM.
Nếu tính từ Vòng Tràng Sinh, Dương KIM trường sinh tại TỴ (Đông Nam). Vượng tại Dậu (Tây) và Mộ tại SỬU ( Đông Bắc). Tràng Sinh,Vượng và Mộ luôn luôn tại 3 vị trí TAM HỢP Tỵ Dậu Sửu tao thành Kim cuộc.
Âm Kim trường sinh tại DẬU (Tây), Vượng tại TỴ (Đông Nam) và Mộ tại SỬU (Đông Bắc).
Nước chảy về Phương nào thì phương đó là phương Mộ khố.
Hình KIM thì TRÒN. Âm Kim phải có dạng TRÒN, đứng, cao hoặc LỒI. Dương Kim phải có dạng TRÒN nằm, phẳng hoặc LÕM.
Nếu thấy Hình và Khí không được chính, thì phải quan sát thêm vì KIM vượng có thể Sinh THỦY. Thủy thì có Hình nhấp nhô sóng nước.
Nhớ lại là Nơi Âm thì đi tìm Dương. Nơi Dương thì đi tìm Âm. Hình củaÂm thì Lồi, Hình của Dương thì Lõm. Vị trí Tốt thường được chọn để xây nhà cửa là Vị trí Trường Sinh hoặc Đế Vượng.
Trường Sinh như cây mới nụ, cần thời gian mới trổ trái ra hoa. Đế Vượng thì như Hoa nỡ rộ, sau đế vượng thì SUY, BỆNH, TỬ. . . .
. Vì thế về lâu dài thì trọng Trường Sinh. Mau chóng thì chọn Đế vượng.
2/ MỘC cuộc:
Nhìn thấy giòng nước chảy về hướng TÂY. Nghĩa là giòng chảy từ hướng ĐÔNG đến. Hướng ĐÔNG hành MỘC nên gọi là: ĐÔNG LONG hay MỘC CUỘC LONG.
Nếu thấy giòng nước chảy từ TRÁI sang PHẢI thì Khí thuộc DƯƠNG. Ngược lại thì Khí thuộc ÂM.
Nếu tính từ vòng Tràng Sinh, Dương Mộc tràng sinh tại HỢI ( Tây Bắc). Vượng tai MÃO ( Đông) và Mộ tại MÙI ( Tây Nam ). Tràng Sinh, Vượng và Mộ luôn luôn tại 3 vị trí tam hợp Hợi Mão Mùi tạo thành Mộc cuộc.
Âm Mộc tràng sinh tại Mão. Vượng tại Hợi và Mộ tại Mùi.
Hình Mộc thì DÀI. Âm Mộc phải có dạng Dài, Đứng, Cao. Dương Mộc phải có dạng Nằm, Dài và thẳng.
Nếu thấy Hình và Khí không được chính, thì phải quan sát thêm vì Mộc vượng có thể đi sinh Hỏa. Hỏa thì có hình Nhọn nhấp nhô.
3/ THỦY cuộc:
Nhìn thấy giòng nước chảy về hướng NAM. Nghĩa là giòng chảy từ hướng BẮC đến. Hướng BẮC hành THỦY nên gọi là: BẮC LONG hay THỦY CUỘC LONG.
Nếu thấy giòng nước chảy từ TRÁI sang PHẢI thì Khí thuộc DƯƠNG. Ngược lại thì Khí thuộc ÂM.
Nếu tính từ Vòng Tràng Sinh, Dương THỦY trường sinh tại THÂN (Tây Nam),Vượng tại TÝ ( Bắc) và Mộ tại THÌN ( Đông Nam). Tràng Sinh, Vượng và Mộ luôn luôn ở vị trí TAM HỢP Thân Tý Thìn tạo thành Thủy cuộc.
Âm thủy tràng sinh tại Tý ( Bắc). Vượng tại Thân ( Tây Nam ) và Mộ tại Thìn ( Đông Nam).
Hình THỦY thì nhấp nhô sóng nước. Âm Thủy phải có dạng Đứng, cao. Dương Thủy phải có dạng Nằm hoặc Lõm.
Nếu thấy hình và khí không được chính, thì phải quan sát thêm là vì Thủy Vượng có thể đi sinh Mộc. Mộc thì có Hình thẳng và dài.
4/ HỎA cuộc:
Nhìn thấy giòng nước chảy về hướng BẮC. Nghĩa là giòng chảy từ hướng NAM đến. Hướng Nam hành HỎA nên gọi là: NAM LONG hay HỎA CUỘC LONG.
Nếu thấy giòng nước chảy từ TRÁI sang PHẢI thì Khí thuộc DƯƠNG. Ngược lại thì Khí thuộc ÂM.
Nếu tính từ vòng Tràng sinh, Dương HỎA tràng sinh tại Dần ( Đông Bắc). Vượng tại NGỌ ( Nam ) và Mộ tại Tuất ( Tây Bắc). Tràng sinh, Vượng và Mộ luôn luôn tại 3 vị trí tam hợp Dần Ngọ Tuất tạo thành Hỏa cuộc
Âm Hỏa tràng sinh tại Ngọ ( Nam ), vượng tại Dần ( Đông Bắc) và Mộ tại Tuất ( Tây Bắc).
Nước chảy về phương nào thì phương đó là Mộ khố.
Hình Hỏa thì Nhọn, nhấp nhô. Âm hỏa phải Cao, nhọn. Đương Hỏa nằm phẳng và góc cạnh.
Nếu thấy Hình và Khí không được chính, thì phải quan sát thêm vì Hỏa vượng có thể đi sinh Thổ. Thổ thì có hình Vuông vức.
Nguồn: http://thegioivohinh.com/diendan/showthread.php?4647-Âm-dương-Hình-lý-trong-địa-lý-dương-trạch
Những điều Cấm Kỵ Về Dương Trạch (vũ Tài Lục)
Những điều Cấm Kỵ Về Dương Trạch (vũ Tài Lục)
Dương trạch là nhà cửa.
Thông thường mà nói thì con người ở đâu chịu ảnh hưởng của nơi ở khá nhiều .Nếu như ta đ̣ược ở căn nhà thoáng gío , ánh sáng đầy đủ tất nhiên sức khỏe tốt tâm ý thoải mái .
Lên một tầng lầu cao hơn khoa kham dư dương trạch (cái lý về đất đai nhà ở ) có thể giúp ta hiểu biết thêm những ảnh hưởng huyền vi khác.
Thủ tướng Churchill nói:"Ngừơi Xây nhà cửa ,nhà cửa tái tạo người".
Mạnh Tử nói:" chổ ở làm biến khí chất, thức ăn thay đổ cơ thể , vấn đề cư trú thật là lớn lắm vậy ".
Để gỉải quyết phần nào vấn đề lớn kể trên ,trước hết hãy tìm biết những điều cấm kị về dươg trạch căn bản có những điều sau đây :
1- Nếu như nhà hai tầng hoặc đang một tầng muốn làm cao thêm cho rộng chổ thì nguyên tắc phải là đằng trước thấp đằng sau cao ,nếu đằng trước cao đằng sau thấp thì con cháu tàn hoại , học hành làm ăn chẳng ra gì , hoặc bỏ đi, nặng hơn nữa có thể đưa đến tình trạng cô nhi qủa phụ .
2- chung quanh nhà , giữa có khỏang đất trống làm sân vườn , danh từ kham dư gọi bằng" quan mộc sát" dể gây chết chóc ,tù tội hoăc bệnh tật triền miên không khỏi . Ngay cả thuê một căn chung cư xây cất theo kiểu này cũng không nên .
3- Mái nhà chổ nước mưa tụ lại để chảy xuống , không được cho nước lũ tuôn mãi vào bậc thềm đi ,lâu dần người trong nhà sẽ bị huyết bệnh (bệh vềmáu )như : băng huyết , mất máu v.v...
4- Đằng trước đằng sau , bên hong nhà hể thấy có vật nhọn đâm tới , ta vẫn thường bảo là đòn dông, không chỉ đòn dông thôi , ngay cả những vật trên cột sắt dùng để làm gì đó cũng kể . Sách gọi bằng "trực sạ sát ", theo nhiều lối "xuyên tâm" ,"sạ yêu","xung dầu", "âm tiễn",tất chẳng tránh khỏi một việc bất ngờ xẩy đến làm điên đảo cuộc sống.
5- Nhà xây vuông, xây tròn , hay xây dài theo hình thể đất, nhưng nếu sau này xây thêm một căn nhà ngang ra không hiệp điệu với xây cất chủ yếu , người ở dể bị ung thư hoặc bị bướu trong cổ .Gian nhà mới xây này sách gọi là "đình thi gian" (căn nhà đặt xác chết ).
6- Chung quanh mọi nhà điều thấp, chỉ một mình nhà mình ̣đột xúât cao hết, như con phượng đứng giữa đàn gà tức là phạm "cô độc sát" hay " xung thiên sát" thì vợ chồng anh em con cái chia lìa .
7-Nhà chung quanh đìêu cao, riêng nhà mình lại thấp sách gọi bằng " áp lực sát".làm ăn khó mọc, mùi sũi tâm.
8-Nhà hai bên thấp nhà mình cao như chữ phẩm( gồm ba chữ khẩu chồng lên nhau) người ở gian cao nhất không lợi , gọi bằng " bất an sát"
9- Nhà ở chỉ nên có hai cửa ,cửa trước lớn , cửa sau nhỏ,nếu có ba hoặc bốn cửa thường đưa đên cải vã tranh giành eo sèo quanh năm suốt tháng . Nhà nào vợ chồng con cái lục đục hãy đóng bớt lại thì hết.
10- cửa lớn phía trước có thêm bên cạnh một cứa nhỏ thường dùng cửa nhỏ ra vào, lâu ngày nhà này sẽ xảy ra chuyện chồng có vợ nhỏ hoặc vợ có chồng nhỏ( ngoại tình) đó là phạm"đ̀ao hoa sát".
11- cửa bên ngoài chạy thốc vào phòng khách rồi từ phòng khách xuyên ra cửa sau làm thành đường thẳnggọi bằng "lậu tài sát" khó tụ tài , làm ra của nhưng không gĩư được của.
12-Đằng sau nhà có đường nướcđi như thác đổ ,hoặc con đường dốc chạy xuống (phần lớn nhà ở các đồi núi)sẽ đưa đến phá sản khi đang làm ăn thịnh vượng, hoặc đàn bà có mang bị lưu sản . danh từ kham dư chỉ đó là "lâm đầu sát"
13- ở nhà chung quanh qúa nhiều cây cối um tùm ,ở như vậy phạm vào "Ám khí sát", cuộc sống thường gặpviệc quái dị như ngộ sát ,điên dại...
14-xây hồ bơi phải xây vuông vắn không để góc hồ bơi xuyên vào căn nhà thành cái thế" đột hãm sát" trai gaí thành trụy lạc hút sách , cờ bạc...
Nguồn: http://thegioivohinh.com/diendan/showthread.php?2042-Những-điều-Cấm-Kỵ-Về-Dương-Trạch-(vũ-Tài-Lục)
Dương trạch là nhà cửa.
Thông thường mà nói thì con người ở đâu chịu ảnh hưởng của nơi ở khá nhiều .Nếu như ta đ̣ược ở căn nhà thoáng gío , ánh sáng đầy đủ tất nhiên sức khỏe tốt tâm ý thoải mái .
Lên một tầng lầu cao hơn khoa kham dư dương trạch (cái lý về đất đai nhà ở ) có thể giúp ta hiểu biết thêm những ảnh hưởng huyền vi khác.
Thủ tướng Churchill nói:"Ngừơi Xây nhà cửa ,nhà cửa tái tạo người".
Mạnh Tử nói:" chổ ở làm biến khí chất, thức ăn thay đổ cơ thể , vấn đề cư trú thật là lớn lắm vậy ".
Để gỉải quyết phần nào vấn đề lớn kể trên ,trước hết hãy tìm biết những điều cấm kị về dươg trạch căn bản có những điều sau đây :
1- Nếu như nhà hai tầng hoặc đang một tầng muốn làm cao thêm cho rộng chổ thì nguyên tắc phải là đằng trước thấp đằng sau cao ,nếu đằng trước cao đằng sau thấp thì con cháu tàn hoại , học hành làm ăn chẳng ra gì , hoặc bỏ đi, nặng hơn nữa có thể đưa đến tình trạng cô nhi qủa phụ .
2- chung quanh nhà , giữa có khỏang đất trống làm sân vườn , danh từ kham dư gọi bằng" quan mộc sát" dể gây chết chóc ,tù tội hoăc bệnh tật triền miên không khỏi . Ngay cả thuê một căn chung cư xây cất theo kiểu này cũng không nên .
3- Mái nhà chổ nước mưa tụ lại để chảy xuống , không được cho nước lũ tuôn mãi vào bậc thềm đi ,lâu dần người trong nhà sẽ bị huyết bệnh (bệh vềmáu )như : băng huyết , mất máu v.v...
4- Đằng trước đằng sau , bên hong nhà hể thấy có vật nhọn đâm tới , ta vẫn thường bảo là đòn dông, không chỉ đòn dông thôi , ngay cả những vật trên cột sắt dùng để làm gì đó cũng kể . Sách gọi bằng "trực sạ sát ", theo nhiều lối "xuyên tâm" ,"sạ yêu","xung dầu", "âm tiễn",tất chẳng tránh khỏi một việc bất ngờ xẩy đến làm điên đảo cuộc sống.
5- Nhà xây vuông, xây tròn , hay xây dài theo hình thể đất, nhưng nếu sau này xây thêm một căn nhà ngang ra không hiệp điệu với xây cất chủ yếu , người ở dể bị ung thư hoặc bị bướu trong cổ .Gian nhà mới xây này sách gọi là "đình thi gian" (căn nhà đặt xác chết ).
6- Chung quanh mọi nhà điều thấp, chỉ một mình nhà mình ̣đột xúât cao hết, như con phượng đứng giữa đàn gà tức là phạm "cô độc sát" hay " xung thiên sát" thì vợ chồng anh em con cái chia lìa .
7-Nhà chung quanh đìêu cao, riêng nhà mình lại thấp sách gọi bằng " áp lực sát".làm ăn khó mọc, mùi sũi tâm.
8-Nhà hai bên thấp nhà mình cao như chữ phẩm( gồm ba chữ khẩu chồng lên nhau) người ở gian cao nhất không lợi , gọi bằng " bất an sát"
9- Nhà ở chỉ nên có hai cửa ,cửa trước lớn , cửa sau nhỏ,nếu có ba hoặc bốn cửa thường đưa đên cải vã tranh giành eo sèo quanh năm suốt tháng . Nhà nào vợ chồng con cái lục đục hãy đóng bớt lại thì hết.
10- cửa lớn phía trước có thêm bên cạnh một cứa nhỏ thường dùng cửa nhỏ ra vào, lâu ngày nhà này sẽ xảy ra chuyện chồng có vợ nhỏ hoặc vợ có chồng nhỏ( ngoại tình) đó là phạm"đ̀ao hoa sát".
11- cửa bên ngoài chạy thốc vào phòng khách rồi từ phòng khách xuyên ra cửa sau làm thành đường thẳnggọi bằng "lậu tài sát" khó tụ tài , làm ra của nhưng không gĩư được của.
12-Đằng sau nhà có đường nướcđi như thác đổ ,hoặc con đường dốc chạy xuống (phần lớn nhà ở các đồi núi)sẽ đưa đến phá sản khi đang làm ăn thịnh vượng, hoặc đàn bà có mang bị lưu sản . danh từ kham dư chỉ đó là "lâm đầu sát"
13- ở nhà chung quanh qúa nhiều cây cối um tùm ,ở như vậy phạm vào "Ám khí sát", cuộc sống thường gặpviệc quái dị như ngộ sát ,điên dại...
14-xây hồ bơi phải xây vuông vắn không để góc hồ bơi xuyên vào căn nhà thành cái thế" đột hãm sát" trai gaí thành trụy lạc hút sách , cờ bạc...
Nguồn: http://thegioivohinh.com/diendan/showthread.php?2042-Những-điều-Cấm-Kỵ-Về-Dương-Trạch-(vũ-Tài-Lục)
YẾU TỐ PHONG THỦY TRONG HỒ
Yếu tố phong thủy trong hồ
Ngày xưa khi làm ăn phát đạt, ai cũng muốn xây một ngôi nhà thật đẹp, trong khuôn viên ngôi nhà đào một cái ao hoặc để nuôi cá chơi, hoặc tạo ra thế giàu sang. Nhưng về khía cạnh phong thủy, ít ai biết rằng chính những cái ao đó lại mang họa đến nhiều hơn là phúc.
Ao hồ, theo cách nói của phong thủy học, bao gồm cả giếng nước, và về vị trí lẫn hình dáng có các trường hợp như sau:
- Nếu có một ở bên Đông, một ở bên Tây, phạm điều đó, trong nhà sẽ không có người phát câm thì phát điên.
- Đằng sau nhà có 2 cái ao, hoặc bên trái, bên phải hay trước nhà đều có ao, phong thủy cho đó là thế chân rồng chân hổ giẫm lên nhau. Không nghi ngờ gì nữa, đây là thế hình sát cho biết không khí dâm dục có đầy trong nhà.
- Trước nhà, sau nhà có ao cũng rất hung, người xưa nói: "Tiền đường hạ cấp đường, nhi tôn huyền tiểu vong", nghĩa là ao trước và ao sau nhà, con cháu chết sớm.
- Vị trí và hình dạng ao không thống nhất cũng gây họa, như: Có cái lồi ra, có cái thụt vào hoặc hình như quả bầu, có cái nhỏ cái to nối liền nhau, bệnh tật và tai họa sẽ đến với nam chủ nhân. Người xưa thường nói: "Thượng đường liên hạ đường, quả phụ thủ không phòng, phong tật bất ly sàng", nghĩa là ao trên liền ao dưới, vợ góa giữ phòng không, ao to nối ao nhỏ, bệnh phong chẳng rời giường.
- Hai hoặc 3 ao liền nhau, báo chủ nhà nước mắt ròng ròng, nghĩa là thế nào sự cố bi thảm cũng xảy ra. Nếu hình dáng ao trông như hoa mai, thì nhà có 3-4 bà vợ góa.
Như vậy, có ao trong khuôn viên trong nhà là mang họa cho người ở, nhưng phong thủy cũng cho rằng ao có thể mang điều tốt đến. Nếu chưa nói đến quy định về khoảng cách, hãy chỉ nói đến hình dáng, ao có hình bán nguyệt là khá tốt. Trước nhà có ao như vậy thì có tiền của. Người xưa nói: Ao bán nguyệt sinh tiền, hàng nghìn kho lúa, trẻ con rớt không chết đuối. Tuy nhiên, cũng nên đề phòng trẻ em về nạn sông nước.
Ao có hình vuông như nghiên mực là tốt nhất, người xưa nói: "Tiền đường tự nghiên trì, tử lục đăng cao đệ, đường thanh do như kính, quý sinh minh", nghĩa là ao trước nhà giống cái nghiên mực, con cháu thi đỗ cao, nước ao mà trong như gương, sinh con quý mà thông minh.
Trước nhà có ao như vậy là tốt, nhưng vị trí ao phải xa cửa nhà, sao cho ánh nắng chiều tà không được phản xạ tia nắng chiếu vào nhà. Trường hợp ao hoặc bể bơi gần nhà, để ánh sáng mặt trời phản xạ được vào trong nhà, phong thủy học gọi cái ao hay bể bơi này là "gương soi chậu máu" hoặc "vạn đạo kim quang" chiếu vào nhà. Gặp trường hợp như vậy, người xưa nói không thất vận lúc tiền vận thì hậu vận thất vận, chủ nhà ắt sẽ bị điên cuồng hoặc bệnh nặng. Nếu hướng giường của chủ nhà lại ở phương vị hung sát, không kể già trẻ, hẳn bị tai nạn liên miên, thậm chí mất mạng, trừ phi cát tinh soi chiếu! Có nhà đào ao trước cửa ở thế "gương soi chậu máu", giữa cửa nhà có treo một cái gương to (Hoặc để trấn trạch, hoặc để chơi) thì sát khí càng mạnh, độ hung càng lớn. Để hóa giải tình trạng "gương soi chậu máu", phong thủy đưa ra phương án thả bèo kín ao để giảm tia nắng khúc xạ vào nhà. Cũng có phương án trồng cây trúc phía bờ ao đối diện ngôi nhà. Trúc dễ trồng, mọc nhanh, sẽ chắn những tia nắng khúc xạ vào nhà khi chiều tà, sát khí giảm hẳn.
Trong xã hội hiện đại, đất chật người đông, đối với những nhà có ao tù, nước không lưu thông, bẩn, không có lợi cho sức khỏe, đồng thời theo phong thủy học, nơi đó cũng dễ gây nên hung tướng cho người ở. Gặp trường hợp này, phong thủy học cho rằng tốt nhất là lấp ao, làm vậy sẽ trừ được hết hung tướng. Nhưng lưu ý một điều, để loại trừ hết sát khí miền đất có ao, trước khi lấp ao phải hút hết nước, làm cho ao khô đi, bốc hết bùn ở đáy ao. Nếu thấy làm như thế phiền phức quá thì cứ để vậy mà lấp cũng được, vì nó cũng không gây nên tai họa. Song mọi ống nước dẫn vào ao, dù bằng vật liệu nào, dạng nào... cũng phải gỡ đi, vì chúng gây nên sát khí ảnh hưởng đến ngôi nhà.
Nếu khuôn viên khu nhà rộng cần có một ao, thì phải bố trí ở phương vị Đông Nam, cách nhà từ 18 m trở lên; nhưng tốt nhất là không có, mà có thì nên lấp. Có loại ao thuộc dạng chảy vòng quanh, xung quanh trồng cây mà không có đông người tụ tập, như khách sạn, nhà hàng, công ty, công xưởng thì không phát sinh vấn đề gì, có khi lại biến thành cát tướng.
Vậy những bể bơi tư gia thì sao?
Ở những thành phố lớn, các khu nhà ở cao sang... người ta thường bố trí bể bơi gần kề. Nếu quan niệm những bể bơi đó là "gương soi chậu máu" theo thuật phong thủy, ắt mọi người sống trong đó sẽ điên cuồng cả hay sao? Trong môi trường thành phố khác với các vùng trống trải, như ở nông thôn hay thị trấn nhỏ, không hẳn vậy. Ở nơi thoáng đãng, ánh mặt trời chiếu xuống ao hồ phản xạ vào nhà không có gì che chắn, nên chúng mới nguy hiểm. Ở thành phố, các bể bơi được xây giữa các cụm nhà cao tầng, chỉ chịu ánh mặt trời chiếu vào giữa trưa, nên không có "vạn đạo kim quang" tức là tia nắng phản xạ chiếu vào nhà, nên không có hung khí.
Song không phải bể bơi bố trí giữa các nhà cao tầng không thể trở thành "gương soi chậu máu". Đó là trường hợp một căn nhà ba tầng có bể bơi ở giữa khu nhà cao tầng, bình thường chỉ chịu sự chiếu nắng mặt trời từ 11 g trưa đến 2 g chiều. Tuy vậy, bể bơi ở đây có vấn đề không hay đứng về mặt phong thủy, nếu như khi thiết kế, xây dựng người ta để ý đến một chút. Thực tế đã có trường hợp người ta làm cửa thông hơi chắn bằng kính để chếch ra ngoài như một mái hiên. Lúc mặt trời từ đỉnh đầu chếch về phía tây, ánh nắng chiếu xuyên thẳng xuống bể bơi, phản xạ lên tấm chắn cửa thông hơi, từ đây ánh nắng lại một lần nữa phản xạ vào nhà tạo các hình lốm đốm. Nếu lúc đó dưới bể bơi có người, hình ánh nắng trong nhà càng lay động. Lúc này, bể bơi của gia đình trở thành "gương soi chậu máu". Trường hợp này chỉ cần vứt bỏ tấm kính chắn ở cửa thông hơi thì mọi việc tốt đẹp.
Trong xã hội nông nghiệp cổ xưa, ao hồ là nơi cấp nước cho cuộc sống con người, do vậy việc đào ao quanh và gần nơi ở là tất yếu. Phong thủy học cũng phát hiện ra mối quan hệ giữa ao hồ với con người và đưa ra những khuyến cáo như nói ở trên, ngoài ra còn có thuyết cho rằng: "Ao mà có hình vuông thì hưng vượng (Với điều kiện không trở thành "gương soi chậu máu"), ao như cái chảo, phú quý vô cùng; nhà to ao nhỏ, nam cô độc, nữ yểu mạng; nhà nhỏ ao to, tài bạch lưu tán; ao to trước cửa, người không thọ; ao to sau nhà, yểu mạng từ nhỏ.
Ngoài ra, những dạng ao sau dù không ở thế "gương soi chậu máu" cũng là hung, như: Ao trước nhà thẳng và dài; ao sau nhà hẹp và nhỏ; nhà kẹp ở giữa ao trước và ao sau; ao trước nhà có góc nhọn chĩa mũi vào cửa; trong nhà có bể nước; giữa ao có thủy đình; trong ao có núi giả; nước ao như bùn hoặc màu vàng. Những ao như vậy, tốt nhất là san lấp đi.
Trên đây là quan niệm của phong thủy học về ao, hồ, giếng nước đối với người ở, những quan niệm này chỉ có giá trị tham khảo khi nghiên cứu nhận thức của người xưa.
Nguồn: http://thegioivohinh.com/diendan/showthread.php?124-Yếu-tố-phong-thủy-trong-hồ
Ngày xưa khi làm ăn phát đạt, ai cũng muốn xây một ngôi nhà thật đẹp, trong khuôn viên ngôi nhà đào một cái ao hoặc để nuôi cá chơi, hoặc tạo ra thế giàu sang. Nhưng về khía cạnh phong thủy, ít ai biết rằng chính những cái ao đó lại mang họa đến nhiều hơn là phúc.
Ao hồ, theo cách nói của phong thủy học, bao gồm cả giếng nước, và về vị trí lẫn hình dáng có các trường hợp như sau:
- Nếu có một ở bên Đông, một ở bên Tây, phạm điều đó, trong nhà sẽ không có người phát câm thì phát điên.
- Đằng sau nhà có 2 cái ao, hoặc bên trái, bên phải hay trước nhà đều có ao, phong thủy cho đó là thế chân rồng chân hổ giẫm lên nhau. Không nghi ngờ gì nữa, đây là thế hình sát cho biết không khí dâm dục có đầy trong nhà.
- Trước nhà, sau nhà có ao cũng rất hung, người xưa nói: "Tiền đường hạ cấp đường, nhi tôn huyền tiểu vong", nghĩa là ao trước và ao sau nhà, con cháu chết sớm.
- Vị trí và hình dạng ao không thống nhất cũng gây họa, như: Có cái lồi ra, có cái thụt vào hoặc hình như quả bầu, có cái nhỏ cái to nối liền nhau, bệnh tật và tai họa sẽ đến với nam chủ nhân. Người xưa thường nói: "Thượng đường liên hạ đường, quả phụ thủ không phòng, phong tật bất ly sàng", nghĩa là ao trên liền ao dưới, vợ góa giữ phòng không, ao to nối ao nhỏ, bệnh phong chẳng rời giường.
- Hai hoặc 3 ao liền nhau, báo chủ nhà nước mắt ròng ròng, nghĩa là thế nào sự cố bi thảm cũng xảy ra. Nếu hình dáng ao trông như hoa mai, thì nhà có 3-4 bà vợ góa.
Như vậy, có ao trong khuôn viên trong nhà là mang họa cho người ở, nhưng phong thủy cũng cho rằng ao có thể mang điều tốt đến. Nếu chưa nói đến quy định về khoảng cách, hãy chỉ nói đến hình dáng, ao có hình bán nguyệt là khá tốt. Trước nhà có ao như vậy thì có tiền của. Người xưa nói: Ao bán nguyệt sinh tiền, hàng nghìn kho lúa, trẻ con rớt không chết đuối. Tuy nhiên, cũng nên đề phòng trẻ em về nạn sông nước.
Ao có hình vuông như nghiên mực là tốt nhất, người xưa nói: "Tiền đường tự nghiên trì, tử lục đăng cao đệ, đường thanh do như kính, quý sinh minh", nghĩa là ao trước nhà giống cái nghiên mực, con cháu thi đỗ cao, nước ao mà trong như gương, sinh con quý mà thông minh.
Trước nhà có ao như vậy là tốt, nhưng vị trí ao phải xa cửa nhà, sao cho ánh nắng chiều tà không được phản xạ tia nắng chiếu vào nhà. Trường hợp ao hoặc bể bơi gần nhà, để ánh sáng mặt trời phản xạ được vào trong nhà, phong thủy học gọi cái ao hay bể bơi này là "gương soi chậu máu" hoặc "vạn đạo kim quang" chiếu vào nhà. Gặp trường hợp như vậy, người xưa nói không thất vận lúc tiền vận thì hậu vận thất vận, chủ nhà ắt sẽ bị điên cuồng hoặc bệnh nặng. Nếu hướng giường của chủ nhà lại ở phương vị hung sát, không kể già trẻ, hẳn bị tai nạn liên miên, thậm chí mất mạng, trừ phi cát tinh soi chiếu! Có nhà đào ao trước cửa ở thế "gương soi chậu máu", giữa cửa nhà có treo một cái gương to (Hoặc để trấn trạch, hoặc để chơi) thì sát khí càng mạnh, độ hung càng lớn. Để hóa giải tình trạng "gương soi chậu máu", phong thủy đưa ra phương án thả bèo kín ao để giảm tia nắng khúc xạ vào nhà. Cũng có phương án trồng cây trúc phía bờ ao đối diện ngôi nhà. Trúc dễ trồng, mọc nhanh, sẽ chắn những tia nắng khúc xạ vào nhà khi chiều tà, sát khí giảm hẳn.
Trong xã hội hiện đại, đất chật người đông, đối với những nhà có ao tù, nước không lưu thông, bẩn, không có lợi cho sức khỏe, đồng thời theo phong thủy học, nơi đó cũng dễ gây nên hung tướng cho người ở. Gặp trường hợp này, phong thủy học cho rằng tốt nhất là lấp ao, làm vậy sẽ trừ được hết hung tướng. Nhưng lưu ý một điều, để loại trừ hết sát khí miền đất có ao, trước khi lấp ao phải hút hết nước, làm cho ao khô đi, bốc hết bùn ở đáy ao. Nếu thấy làm như thế phiền phức quá thì cứ để vậy mà lấp cũng được, vì nó cũng không gây nên tai họa. Song mọi ống nước dẫn vào ao, dù bằng vật liệu nào, dạng nào... cũng phải gỡ đi, vì chúng gây nên sát khí ảnh hưởng đến ngôi nhà.
Nếu khuôn viên khu nhà rộng cần có một ao, thì phải bố trí ở phương vị Đông Nam, cách nhà từ 18 m trở lên; nhưng tốt nhất là không có, mà có thì nên lấp. Có loại ao thuộc dạng chảy vòng quanh, xung quanh trồng cây mà không có đông người tụ tập, như khách sạn, nhà hàng, công ty, công xưởng thì không phát sinh vấn đề gì, có khi lại biến thành cát tướng.
Vậy những bể bơi tư gia thì sao?
Ở những thành phố lớn, các khu nhà ở cao sang... người ta thường bố trí bể bơi gần kề. Nếu quan niệm những bể bơi đó là "gương soi chậu máu" theo thuật phong thủy, ắt mọi người sống trong đó sẽ điên cuồng cả hay sao? Trong môi trường thành phố khác với các vùng trống trải, như ở nông thôn hay thị trấn nhỏ, không hẳn vậy. Ở nơi thoáng đãng, ánh mặt trời chiếu xuống ao hồ phản xạ vào nhà không có gì che chắn, nên chúng mới nguy hiểm. Ở thành phố, các bể bơi được xây giữa các cụm nhà cao tầng, chỉ chịu ánh mặt trời chiếu vào giữa trưa, nên không có "vạn đạo kim quang" tức là tia nắng phản xạ chiếu vào nhà, nên không có hung khí.
Song không phải bể bơi bố trí giữa các nhà cao tầng không thể trở thành "gương soi chậu máu". Đó là trường hợp một căn nhà ba tầng có bể bơi ở giữa khu nhà cao tầng, bình thường chỉ chịu sự chiếu nắng mặt trời từ 11 g trưa đến 2 g chiều. Tuy vậy, bể bơi ở đây có vấn đề không hay đứng về mặt phong thủy, nếu như khi thiết kế, xây dựng người ta để ý đến một chút. Thực tế đã có trường hợp người ta làm cửa thông hơi chắn bằng kính để chếch ra ngoài như một mái hiên. Lúc mặt trời từ đỉnh đầu chếch về phía tây, ánh nắng chiếu xuyên thẳng xuống bể bơi, phản xạ lên tấm chắn cửa thông hơi, từ đây ánh nắng lại một lần nữa phản xạ vào nhà tạo các hình lốm đốm. Nếu lúc đó dưới bể bơi có người, hình ánh nắng trong nhà càng lay động. Lúc này, bể bơi của gia đình trở thành "gương soi chậu máu". Trường hợp này chỉ cần vứt bỏ tấm kính chắn ở cửa thông hơi thì mọi việc tốt đẹp.
Trong xã hội nông nghiệp cổ xưa, ao hồ là nơi cấp nước cho cuộc sống con người, do vậy việc đào ao quanh và gần nơi ở là tất yếu. Phong thủy học cũng phát hiện ra mối quan hệ giữa ao hồ với con người và đưa ra những khuyến cáo như nói ở trên, ngoài ra còn có thuyết cho rằng: "Ao mà có hình vuông thì hưng vượng (Với điều kiện không trở thành "gương soi chậu máu"), ao như cái chảo, phú quý vô cùng; nhà to ao nhỏ, nam cô độc, nữ yểu mạng; nhà nhỏ ao to, tài bạch lưu tán; ao to trước cửa, người không thọ; ao to sau nhà, yểu mạng từ nhỏ.
Ngoài ra, những dạng ao sau dù không ở thế "gương soi chậu máu" cũng là hung, như: Ao trước nhà thẳng và dài; ao sau nhà hẹp và nhỏ; nhà kẹp ở giữa ao trước và ao sau; ao trước nhà có góc nhọn chĩa mũi vào cửa; trong nhà có bể nước; giữa ao có thủy đình; trong ao có núi giả; nước ao như bùn hoặc màu vàng. Những ao như vậy, tốt nhất là san lấp đi.
Trên đây là quan niệm của phong thủy học về ao, hồ, giếng nước đối với người ở, những quan niệm này chỉ có giá trị tham khảo khi nghiên cứu nhận thức của người xưa.
Nguồn: http://thegioivohinh.com/diendan/showthread.php?124-Yếu-tố-phong-thủy-trong-hồ
HUYỀN THOẠI VỀ LONG MẠCH Ở DÃY HOÀNH SƠN
Huyền thoại về Long Mạch ở dãy Hoành Sơn
Góp thêm một huyền thoại về Long Mạch ở dãy Hoành Sơn
Tác giả
Sinh hòa THÁI TẨU
Nhân đọc chuyện “Cao Biền trảm long Trà Khúc” của Thùy Dương Tử và “Huyền thoại CaoBiền yểm đất ở dãy Đèo Cả” của cô Văn Uyên đăng trong tạp chí Phổ Thông số 244 và 247, tôi sực nhớ đến chuyện ông thầy địa lý Tàu nào đó (có phải con cháu của Cao Biền chăng? ) âm mưu đào đứt lòng mạch dòng sông CÔN dưới chân HOÀNH SƠN, khiến cho nhà Tây Sơn suy vong để trả thù 3 anh em Tây Sơn đã chiếm mất long huyệt của ông tìm ra hay là để ngănngừa mầm mống của Việt tộc phương Nam? Vậy xin chép thuộc ra sau đây để góp thêm một huyền thoại về long mạch.
Hoành Sơn một đại địa:
Hoành Sơn còn gọi là núi Ngang nằm trong dãy Tây Sơn thuộc địa phận xã Bình Tường quậnBình Khê tỉnh Bình Định. Hoành Sơn không cao (364m) nhưng dài và rộng, ở xa trông rất tuấn tú, khôi hùng. Theo các nhà phong thủy Tàu và địa phương cho biết thì Hoành Sơn là đại địa và hiện tại Hoành sơn là một trong “Nhị thập bác cảnh” của Bình Định. Vì chung quanh Hoành sơn có nhiều ngọn núi bao bọc, mỗi ngọn mang một dáng dấp cổ vật như Núi Bút
(Trưng sơn), Núi Nghiên (Nghiên sơn), Núi Ấn (Ấn sơn), Núi Kiếm (Kiếm sơn), Núi Trống (Cổ sơn), Núi Chiếng (Chung sơn), trước mặt là ba dãy gò cao đá mọc giăng hàng rông nhưquân chầu, hổ phục, phía dưới là hai phụ lưu sông CÔN từ phía Tây và phía Bắc chay ra họp nhau ở địa đầu thôn Phú Phong như hai cánh tay người mẹ ôm chặt lấy Hoành sơn. Địa thế thật cũng đáng gọi là long bàn hổ cứ.
Tam kiệt TÂY SƠN Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ sinh trưởng trong một gia đình nông thôn tại làng Phú Lạc (Bình khê) hướng vọng về dãy Hoành Sơn này. Nhưng rồi thời thế tao anh hùng, địa linh sinh nhân kiệt hay long mạch do mồ mả tổ tiên mà ba anh em Tây sơn trở thành những trang anh hùng cái thế, lật đổ Nguyễn, diệt tan Trịnh, đánh bại Mãn thanh, thống nhất nước Việt Nam vào cuối thế kỷ thứ 18? Điều đó xin nhường lại cho lịch sử phân định. Nhưng theo các vị thức giả ở Bình khê kể lại thì nhà Tây Sơn phát Đế nghiệp là nhờ cuộc đất chôn thân sinh của ba Ngài trân dãy Hoành sơn.
Huyền thoại về Long Huyệt: Các cụ kể rằng:
Trước ngày ba anh em Tây sơn khởi nghĩa, trong khoảng thời Định Vương Nguyễn Phúc Thuần (1765-1777) trị vì, có một Ông Thầy địa lý Tàu thường ngày xách địa bàn đi đi lại lại trong vùng Tây Sơn để tìm phúc địa. Nguyễn Nhạc thấy vậy theo rình. Một hôm thầy địa lý dường như đã tìm ra long mạch nhưng còn phân vân không biết huyệt khí nằm ở đâu, Thầy mới đem hai cành trúc xanh tốt và đều nhau đến cắm ở triền phía đông dãy Hoành sơn hướng Phú Lạc (nơi sinh trưởng của ba anh em Tây Sơn) phía Bắc một cây và phía Nam một rồi bỏ đi. Nguyễn Nhạc ngày ngày để ý theo dõi hai cành trúc ấy. Hai tháng sau, cành trúc phía Bắc vẫn sống xanh tốt như khi mới trồng còn cành phía Nam thì héo khô. Nguyễn Nhạc cả mừng vì biết rằng long mạch đã ứng hiện nơi cành phía Bắc, bèn nhổ cây khô phía Nam đem cắm ở phía Bắc và nhổ cây tươi ở phía Bắc đem cắm vào phía Nam.
Đúng 100 ngày kể từ ngày trồng trúc, thầy địa lý Tàu trở lại thấy hai cành trúc đều chết cả, Thầy nhún vai, trề môi lắc đầu chê là “giả cuộc” rồi bỏ đi thẳng. Nguyễn Nhạc mừng rỡ về bàn với hai anh em rồi hốt hài cốt của Cha đem chôn nơi cành phía Bắc.
Lại có cụ kể rằng:
Có một thầy địa lý Tàu lúc đến tìm địa cuộc ở vùng đất Tây Sơn thường tá túc nơi nhà Nguyễn Nhạc và nhờ Nguyễn Nhạc dẫn đường cho thầy đi tìm long mạch khắp vùng Tây Sơn. Sau nhiều lần xem xét, ngắm nghía, đo đặt địa bàn, Thầy chú ý đến dãy Hoành sơn và tỏ vẻ đắc ý cuộc đất này lắm. Đoạn Thầy bỏ đi. Một thời gian sau Thầy trở lại cũng ghé nơi nhà Nguyễn Nhạc mà tá túc. Nhưng đặc biệt, lần này, ngoài chiếc địa bàn Thầy lại còn mang theo một
chiếc trắp nhỏ ngoài bọc tấm khăn điều. Nguyễn Nhạc đoán biết là Thầy Tàu đã tìm ra được long huyệt và… chiếc tráp kia là hài cốt của Cha ông mang sang chôn. Nguyễn Nhạc bèn đóng một cái trắp giống hệt như cái trắp của thầy Tàu và hốt hài cốt của thân sinh mình đựng vào rồi tìm cách đánh đổi. Nhưng thật khó mà đánh đổi được vì cái trắp ấy Thầy Tàu luôn luôn mang theo bên người không lúc nào rời. Nguyễn Nhạc hội hai em lại và nghĩ ra một kế.
Đến ngày lành đã chọn, Thầy Tàu lẻn mang trắp cùng địa bàn đi lên dãy Hoành sơn. Vừa đến chân núi thì một con cọp to bằng người trong bụi rậm gầm lên một tiếng dữ tợn rồi nhày xổ ra vồ. Thầy Tàu thất kinh hồn vía văng trắp và địa bàn mà thoát thân. Hồi lâu hoàn hồn, không thấy cọp rượt theo Thầy mon men quay lại chỗ cũ, Thầy mừng quýnh vì chiếc trắp và địa bàn vẫn còn nằm lăng lóc ở đó, Thầy vội vã trèo lên nơi long huyệt đã tìm trước mà đào bới chôn cất. Xong, Thầy hớn hở trở về với hy vọng chờ ngày “long huyệt vương phát”. Không ngờ chiếc trắp Thầy chôn là hài cốt của Hồ Phi Phúc còn con cọp kia chỉ là người giả mà thôi.
Hai thuyết kể trên tuy có khác về tiểu thuyết nhưng vẫn giống nhau là hài cốt của Hồ Phi Phúc được chôn nơi long mạch trong dãy Hoành sơn.
Các cụ còn kể tiếp rằng:
Sau khi chôn mộ cha trên Hoành sơn thì ba anh em Nguyễn Nhạc vùng phát tướng. Mặt mày sáng rỡ, học hành thông thái. Thầy giáo Hiến dạy ba anh em Nhạc vốn là người có biệt nhãn lại thông thạo về khoa tướng số, xem biết anh em Nguyễn Nhạc đã vượng thời nên mới đem câu sấm “Tây khởi nghĩa, Bắc thu công” ra mà khuyên Nguyễn Nhạc. Từ đó ba anh em
Nguyễn Nhạc mới rắp tâm mưu đồ đại sự, chiêu tập hào kiệt, lấy dãy Hoành son làm căn cứ.
Mãi cho đến khi Nguyễn Huệ đại thắng 20 vạn quân Thanh tại gò Đống Đa, đuổi Tôn sĩ Nghị chạy về Tàu mình không kịp mặc giáp, nhựa chưa thắng yên cương, mà còn nuôi mộng lớn lấy lại đất Lưỡng Quảng, cầu hôn công chúa Vua Càn Long, tiếng tăm vang dội cả Trung Quốc.
Ông Thầy địa lý năm xưa nhớ lại chuyện cũ, bèn bôn ba sang lại Hoành sơn xem thử thì quả nhiên cuộc đất tìm ra năm trước đang phát. Hỏi thăm thì đó là mộ của Hồ phi Phúc thân sinh ba vua Tây sơn.
Thầy địa cả giận vì sự cướp đoạt long huyệt của mình đã tìm ra và để tránh hậu họa chiến tranh Việt-Trung, Thầy địa bèn lập mưu phá long mạch bằng cách bảo Nguyễn Nhạc hãy lấp mấy ngọn phụ lưu Sông Côn ở phía Nam và đào thêm mấy nhánh khác ở phía Bắc để dẫn thủy vào ruộng cho nhân dân cày cấy làm, ăn, Nguyễn Nhạc tưởng thật nghe lời.
Những nhánh sông vừa đào sông thì đùng một cái ở Phú Xuân Nguyễn Huệ băng hà ngày 29-7-1792 (có tài liệu lại ghi 6-9-1792). Ở trong Nam thì Nguyễn Ánh chiếm hết đất miền Nam rồi kéo quân ra đánh Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc chống không nổi phải cầu cứu cháu là Nguyễn Quang Toản, Nguyễn Quang Toản thừa thế cướp thành Quy Nhơn rồi lại sáp nhập lãnh thổ của
Bác vào lãnh thổ của mình. Nguyễn Nhạc tức giận thổ huyết mà chết ngày 13-12-1793.
Nguyễn Huệ mất lúc 40 tuổi, làm vua được 5 năm. Con, Nguyễn Quang Toản 10 tuổi lên ngôi Thái sư Bùi Khắc Tuyên chuyên quyền làm bậy, triều thần chia rẽ, tướng tá giết hại lẫn nhau. Nguyễn Nhạc làm vua được 16 năm, sau khi chết con là Nguyễn Bảo cũng bị Nguyễn Quang Toản giết. Từ đó, nhà Tây Sơn suy dần và đến năm 1802 thì bị Nguyễn Ánh dứt hẳn.
Đối với thời đại nguyên tử, hỏa tiễn này, liệu người ta còn có thể tin những huyền thoại về long mạch là có thật không ? Tin cũng không được mà không tin cũng không được! Vì con người làm sao giải thích nổi cái lẽ huyền vi của tạo hóa cũng như ai có ngờ rằng con người hôm nay đã lên được trên Cung Quảng ?
Sinh hòa THÁI TẨU
Nguồn: http://thegioivohinh.com/diendan/showthread.php?130-Huyền-thoại-về-Long-Mạch-ở-dãy-Hoành-Sơn
Góp thêm một huyền thoại về Long Mạch ở dãy Hoành Sơn
Tác giả
Sinh hòa THÁI TẨU
Nhân đọc chuyện “Cao Biền trảm long Trà Khúc” của Thùy Dương Tử và “Huyền thoại CaoBiền yểm đất ở dãy Đèo Cả” của cô Văn Uyên đăng trong tạp chí Phổ Thông số 244 và 247, tôi sực nhớ đến chuyện ông thầy địa lý Tàu nào đó (có phải con cháu của Cao Biền chăng? ) âm mưu đào đứt lòng mạch dòng sông CÔN dưới chân HOÀNH SƠN, khiến cho nhà Tây Sơn suy vong để trả thù 3 anh em Tây Sơn đã chiếm mất long huyệt của ông tìm ra hay là để ngănngừa mầm mống của Việt tộc phương Nam? Vậy xin chép thuộc ra sau đây để góp thêm một huyền thoại về long mạch.
Hoành Sơn một đại địa:
Hoành Sơn còn gọi là núi Ngang nằm trong dãy Tây Sơn thuộc địa phận xã Bình Tường quậnBình Khê tỉnh Bình Định. Hoành Sơn không cao (364m) nhưng dài và rộng, ở xa trông rất tuấn tú, khôi hùng. Theo các nhà phong thủy Tàu và địa phương cho biết thì Hoành Sơn là đại địa và hiện tại Hoành sơn là một trong “Nhị thập bác cảnh” của Bình Định. Vì chung quanh Hoành sơn có nhiều ngọn núi bao bọc, mỗi ngọn mang một dáng dấp cổ vật như Núi Bút
(Trưng sơn), Núi Nghiên (Nghiên sơn), Núi Ấn (Ấn sơn), Núi Kiếm (Kiếm sơn), Núi Trống (Cổ sơn), Núi Chiếng (Chung sơn), trước mặt là ba dãy gò cao đá mọc giăng hàng rông nhưquân chầu, hổ phục, phía dưới là hai phụ lưu sông CÔN từ phía Tây và phía Bắc chay ra họp nhau ở địa đầu thôn Phú Phong như hai cánh tay người mẹ ôm chặt lấy Hoành sơn. Địa thế thật cũng đáng gọi là long bàn hổ cứ.
Tam kiệt TÂY SƠN Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ sinh trưởng trong một gia đình nông thôn tại làng Phú Lạc (Bình khê) hướng vọng về dãy Hoành Sơn này. Nhưng rồi thời thế tao anh hùng, địa linh sinh nhân kiệt hay long mạch do mồ mả tổ tiên mà ba anh em Tây sơn trở thành những trang anh hùng cái thế, lật đổ Nguyễn, diệt tan Trịnh, đánh bại Mãn thanh, thống nhất nước Việt Nam vào cuối thế kỷ thứ 18? Điều đó xin nhường lại cho lịch sử phân định. Nhưng theo các vị thức giả ở Bình khê kể lại thì nhà Tây Sơn phát Đế nghiệp là nhờ cuộc đất chôn thân sinh của ba Ngài trân dãy Hoành sơn.
Huyền thoại về Long Huyệt: Các cụ kể rằng:
Trước ngày ba anh em Tây sơn khởi nghĩa, trong khoảng thời Định Vương Nguyễn Phúc Thuần (1765-1777) trị vì, có một Ông Thầy địa lý Tàu thường ngày xách địa bàn đi đi lại lại trong vùng Tây Sơn để tìm phúc địa. Nguyễn Nhạc thấy vậy theo rình. Một hôm thầy địa lý dường như đã tìm ra long mạch nhưng còn phân vân không biết huyệt khí nằm ở đâu, Thầy mới đem hai cành trúc xanh tốt và đều nhau đến cắm ở triền phía đông dãy Hoành sơn hướng Phú Lạc (nơi sinh trưởng của ba anh em Tây Sơn) phía Bắc một cây và phía Nam một rồi bỏ đi. Nguyễn Nhạc ngày ngày để ý theo dõi hai cành trúc ấy. Hai tháng sau, cành trúc phía Bắc vẫn sống xanh tốt như khi mới trồng còn cành phía Nam thì héo khô. Nguyễn Nhạc cả mừng vì biết rằng long mạch đã ứng hiện nơi cành phía Bắc, bèn nhổ cây khô phía Nam đem cắm ở phía Bắc và nhổ cây tươi ở phía Bắc đem cắm vào phía Nam.
Đúng 100 ngày kể từ ngày trồng trúc, thầy địa lý Tàu trở lại thấy hai cành trúc đều chết cả, Thầy nhún vai, trề môi lắc đầu chê là “giả cuộc” rồi bỏ đi thẳng. Nguyễn Nhạc mừng rỡ về bàn với hai anh em rồi hốt hài cốt của Cha đem chôn nơi cành phía Bắc.
Lại có cụ kể rằng:
Có một thầy địa lý Tàu lúc đến tìm địa cuộc ở vùng đất Tây Sơn thường tá túc nơi nhà Nguyễn Nhạc và nhờ Nguyễn Nhạc dẫn đường cho thầy đi tìm long mạch khắp vùng Tây Sơn. Sau nhiều lần xem xét, ngắm nghía, đo đặt địa bàn, Thầy chú ý đến dãy Hoành sơn và tỏ vẻ đắc ý cuộc đất này lắm. Đoạn Thầy bỏ đi. Một thời gian sau Thầy trở lại cũng ghé nơi nhà Nguyễn Nhạc mà tá túc. Nhưng đặc biệt, lần này, ngoài chiếc địa bàn Thầy lại còn mang theo một
chiếc trắp nhỏ ngoài bọc tấm khăn điều. Nguyễn Nhạc đoán biết là Thầy Tàu đã tìm ra được long huyệt và… chiếc tráp kia là hài cốt của Cha ông mang sang chôn. Nguyễn Nhạc bèn đóng một cái trắp giống hệt như cái trắp của thầy Tàu và hốt hài cốt của thân sinh mình đựng vào rồi tìm cách đánh đổi. Nhưng thật khó mà đánh đổi được vì cái trắp ấy Thầy Tàu luôn luôn mang theo bên người không lúc nào rời. Nguyễn Nhạc hội hai em lại và nghĩ ra một kế.
Đến ngày lành đã chọn, Thầy Tàu lẻn mang trắp cùng địa bàn đi lên dãy Hoành sơn. Vừa đến chân núi thì một con cọp to bằng người trong bụi rậm gầm lên một tiếng dữ tợn rồi nhày xổ ra vồ. Thầy Tàu thất kinh hồn vía văng trắp và địa bàn mà thoát thân. Hồi lâu hoàn hồn, không thấy cọp rượt theo Thầy mon men quay lại chỗ cũ, Thầy mừng quýnh vì chiếc trắp và địa bàn vẫn còn nằm lăng lóc ở đó, Thầy vội vã trèo lên nơi long huyệt đã tìm trước mà đào bới chôn cất. Xong, Thầy hớn hở trở về với hy vọng chờ ngày “long huyệt vương phát”. Không ngờ chiếc trắp Thầy chôn là hài cốt của Hồ Phi Phúc còn con cọp kia chỉ là người giả mà thôi.
Hai thuyết kể trên tuy có khác về tiểu thuyết nhưng vẫn giống nhau là hài cốt của Hồ Phi Phúc được chôn nơi long mạch trong dãy Hoành sơn.
Các cụ còn kể tiếp rằng:
Sau khi chôn mộ cha trên Hoành sơn thì ba anh em Nguyễn Nhạc vùng phát tướng. Mặt mày sáng rỡ, học hành thông thái. Thầy giáo Hiến dạy ba anh em Nhạc vốn là người có biệt nhãn lại thông thạo về khoa tướng số, xem biết anh em Nguyễn Nhạc đã vượng thời nên mới đem câu sấm “Tây khởi nghĩa, Bắc thu công” ra mà khuyên Nguyễn Nhạc. Từ đó ba anh em
Nguyễn Nhạc mới rắp tâm mưu đồ đại sự, chiêu tập hào kiệt, lấy dãy Hoành son làm căn cứ.
Mãi cho đến khi Nguyễn Huệ đại thắng 20 vạn quân Thanh tại gò Đống Đa, đuổi Tôn sĩ Nghị chạy về Tàu mình không kịp mặc giáp, nhựa chưa thắng yên cương, mà còn nuôi mộng lớn lấy lại đất Lưỡng Quảng, cầu hôn công chúa Vua Càn Long, tiếng tăm vang dội cả Trung Quốc.
Ông Thầy địa lý năm xưa nhớ lại chuyện cũ, bèn bôn ba sang lại Hoành sơn xem thử thì quả nhiên cuộc đất tìm ra năm trước đang phát. Hỏi thăm thì đó là mộ của Hồ phi Phúc thân sinh ba vua Tây sơn.
Thầy địa cả giận vì sự cướp đoạt long huyệt của mình đã tìm ra và để tránh hậu họa chiến tranh Việt-Trung, Thầy địa bèn lập mưu phá long mạch bằng cách bảo Nguyễn Nhạc hãy lấp mấy ngọn phụ lưu Sông Côn ở phía Nam và đào thêm mấy nhánh khác ở phía Bắc để dẫn thủy vào ruộng cho nhân dân cày cấy làm, ăn, Nguyễn Nhạc tưởng thật nghe lời.
Những nhánh sông vừa đào sông thì đùng một cái ở Phú Xuân Nguyễn Huệ băng hà ngày 29-7-1792 (có tài liệu lại ghi 6-9-1792). Ở trong Nam thì Nguyễn Ánh chiếm hết đất miền Nam rồi kéo quân ra đánh Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc chống không nổi phải cầu cứu cháu là Nguyễn Quang Toản, Nguyễn Quang Toản thừa thế cướp thành Quy Nhơn rồi lại sáp nhập lãnh thổ của
Bác vào lãnh thổ của mình. Nguyễn Nhạc tức giận thổ huyết mà chết ngày 13-12-1793.
Nguyễn Huệ mất lúc 40 tuổi, làm vua được 5 năm. Con, Nguyễn Quang Toản 10 tuổi lên ngôi Thái sư Bùi Khắc Tuyên chuyên quyền làm bậy, triều thần chia rẽ, tướng tá giết hại lẫn nhau. Nguyễn Nhạc làm vua được 16 năm, sau khi chết con là Nguyễn Bảo cũng bị Nguyễn Quang Toản giết. Từ đó, nhà Tây Sơn suy dần và đến năm 1802 thì bị Nguyễn Ánh dứt hẳn.
Đối với thời đại nguyên tử, hỏa tiễn này, liệu người ta còn có thể tin những huyền thoại về long mạch là có thật không ? Tin cũng không được mà không tin cũng không được! Vì con người làm sao giải thích nổi cái lẽ huyền vi của tạo hóa cũng như ai có ngờ rằng con người hôm nay đã lên được trên Cung Quảng ?
Sinh hòa THÁI TẨU
Nguồn: http://thegioivohinh.com/diendan/showthread.php?130-Huyền-thoại-về-Long-Mạch-ở-dãy-Hoành-Sơn
CHUYỆN NGƯỜI XƯA CHỌN ĐẤT LÀM NHÀ
Chuyện người xưa chọn đất làm nhà
Phong thuỷ tồn tại trên hai nghìn năm mà cực thịnh là các triều nhà Minh, nhà Thanh bên Tàu, vào khoảng năm 1369 đến đầu thế kỷ này.
Hai khái niệm mà nhiều người hoà trộn thành một, hoặc là vô tình hay hữu ý không phân biệt đó là phong thuỷ và thuật phong thuỷ. Phong thuỷ là địa thế, địa hình, là đất là nước quanh ta. Phong thuỷ là môi trường mà con người tồn tại trong đó. Thuật phong thuỷ là những luận lý, những suy nghĩ của con người và các thích ứng cuộc sống của con người khi nằm trong cái phong thuỷ ấy. Như thế phong thuỷ là tồn tại khách quan còn thuật phong thuỷ là sản phẩm của ý thức liên quan đến phong thuỷ.
Phong thuỷ còn có ý nghĩa rộng là những hoạt động nghiên cứu về thiên văn, về sao trời, vũ trụ, về trái đất, về khí tượng, về địa thế làm nhà, đặt mồ mả. Nên vừa gần với con người lại vừa xa với con người, lý luận cơ bản của phong thuỷ (kinh dịch, âm dương ngũ hành) thì rất trừu tượng, thuật ngữ sử dụng thì khác lạ với ngôn từ hàng ngày tạo ra cho phong thủy một dạng vẻ bí hiểm. Đọc phong thuỷ và nghe về phong thuỷ thấy một không khí sống, chết đan xen, đất trời hoà nhập, rõ không ra rõ mờ không ra mờ làm cho quần chúng tin thì có thể tin, có thể không tin thì cũng sợ. Thấy phong thủy lại thêu dệt bao chuyện ly kỳ, gán một số quan niệm phong thuỷ vào các sự kiện lịch sử, tô vẽ cho phong thuỷ có bộ mặt thần bí.
Lý luận và thực tiễn của phong thuỷ vô cùng phức tạp. Để xem một thế đất đặt mả, phần lớn thầy địa lý phải ở gần gia chủ cả năm trời, sáng cơm rượu rồi đi ngắm nghiá đất trời rong ruổi ngoài đồng. Chiều về đọc sách (chẳng hiểu sách gì), khểnh duỗi tư duy để rồi nhập nhoạng tối lại thành kính và đợi chờ đất phát. Chờ mãi không thấy đất phát lại ngẫm nghĩ, tính suy hay là tại mình tâm chưa thành, lòng chưa kính hay thậm chí còn hối vì đãi thầy chưa hậu.
Ngay vài năm gần đây trong câu chuyện làm nhà ở ta, chắc không ít người cậy thầy phong thuỷ. Vào những năm 1991- 1993 nhà đất vào cơn thịnh vượng thì nhiều người làm nên ăn ra tưởng đâu như nhờ thầy mà phát. Nhưng sang năm 1995 – 1996 nhà vay tiền làm, những mong Tây thuê để thu hồi vốn nhưng biển treo “house for rent” cả thời gian dài dài chẳng có ai ngó hỏi. Nợ vẫn chất chồng, lãi mẹ đẻ lãi con, chắc cũng chẳng có ai đi trách thầy phong thuỷ. Thầy phong thuỷ nào chẳng nói như tép nhảy, lại đệm những từ như minh đườmg, huyền vũ, bạch hổ, thanh long, chủ nhà chỉ còn cách gật đầu lia lịa xuýt xoa khen thầy và tự hào mình đã được đặt ngang mình cùng thầy đạo cao đức trọng.
Nước Trung Hoa từ sau 1949 thuật phong thuỷ bị đả kích nặng nề, không dám công khai lộ diện nhưng nó lại được Hồng Kông, Đài Loan nâng đỡ. Nó cứ dai dẳng tồn tại có lúc rõ hình có lúc lu mờ, kín đáo. Vài năm gần đây, trong không khí cải cách chung về kinh tế ở Trung Quốc người ta lại nghiên cứu và bàn luận về phong thuỷ trên sách vở.
Điều khẳng định là nó tồn tại dai dẳng. Vậy cái lý để nó tồn tại là gì. Có người xếp phong thuỷ như một hiện tượng văn hoá, vì nó sống trong phần hồn của con người.
Trong phong thuỷ và thuật phong thuỷ có cái lý giải được theo khoa học là địa hình, địa thế làm nhà chịu ảnh hưởng của địa chất công trình, địa chất thuỷ văn, vi khí hậu. Xem thế đất làm nhà chính là chọn theo ngôi nhà theo các điều kiện thuận lợi về phương vị, khí hậu, địa chất công trình tốt, địa chất thuỷ văn phù hợp. Đây chính là khâu điều tra cơ bản để chọn địa điểm xây dựng. Từ môi trường vi khí hậu tốt mà chủ nhà có sức khoẻ tốt, tâm lý tốt, làm nên ăn ra. Đấy là những nhân tố tích cực.
Làm cho phong thuỷ thần bí, võ đoán những thế đất này thì đau mắt, thế đất kia con gái lại goá chồng ...là điều chưa hẳn dễ tin.
Đọc phong thuỷ, tìm hiểu phong thuỷ để tìm ra yếu tố để nó tồn tại như hiện tượng văn hoá, dùng nhãn quan khoa học để khen cái được, chê cái bịa đặt là điều cần làm. Đối chiếu những điều đã có trong phong thuỷ và thuật phong thuỷ, gạn đục khơi trong với phong thuỷ là điều có thể làm được.
Phong thuỷ gắn liền với đất đai, với phương thức. Tri thức về phong thuỷ không thể tách rời với những khái niệm cơ bản về phương vị hiểu theo cách của người Tàu cổ.
Để xác định phương vị khi đi khảo sát đất đai, nghề phong thuỷ dùng dụng cụ gọi là la bàn. La bàn lớn gọi là La kinh. La bàn nhỏ gọi là trốc long. Trên la bàn, la kinh hay trốc long vẽ nhiều vòng tròn và các vạch xuyên tâm chia phương vị.
Đời Minh có Từ Chi Mạc soạn “La kinh đỉnh môn trâm” có hai quyển chỉ nam châm. Sách này cho rằng la kinh lúc đó có 24 hướng, bỏ quên 12 chi của tiên thiên, nên thêm 12 chi, chia làm 33 tầng, trình bày bằng chữ và vẽ hình. Ngoài ra sách còn một phụ lục do Chu Chi Tương vẽ.
Thẩm Thăng đời Minh cũng soạn “La kinh đỉnh môn trâm” bàn về tiêu nạp khí trong 72 long mạch.
Chính giữa la bàn gắn một kim nam châm có trụ quay. Phần dưới kim là các vòng trong đồng tâm và những tia đi qua trục kim nam châm ghi phương vị. Trong các vòng tròn (thường là ba vòng) thì vòng trong cùng là vòng địa bàn, vòng giữa là vòng nhân bàn và vòng ngoài cùng là vòng thiên bàn. La kinh có thể có tới 13 vòng.
Nếu chỉ có ba vòng thì vòng thiên bàn dùng xem hướng nước tụ, nước chảy. Vòng địa bàn để ấn định long mạch. Vòng nhân bàn để luận sự tốt xấu của các gò đống (mà phong thuỷ gọi là các sa). Vòng tròn được chia thành 24 ô, mỗi ô ứng với 150
Nếu lấy vòng tròn địa bàn làm gốc thì vòng thiên bàn lệch về phải nửa ô và vòng nhân bàn lệch về phía trái nửa ô.
Tại tâm thường làm một vòng nhỏ, chia thành hình âm, dương. Nhận thức là Thái cực sinh lưỡng nghi. Lưỡng nghi sinh Tứ tượng. Tứ tượng là Thái dương,Thái âm,Thiếu dương,Thiếu âm. Đó chính là bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc. Cách xác định phương vị trước thời Tần: Khi đi, trước mặt là Chu Tước, sau lưng là Huyền Vũ, còn bên tả là Thanh Long thì bên hữu là Bạch Hỗ. Điều này có nghĩa là, trước mặt là Nam thì sau lương là Bắc, bên trái là Đông thì bên phải là Tây.
Chính Bắc ghi chữ Tý, chính Nam ghi chữ Ngọ, chính Đông ghi chữ Mão, chính Tây ghi chữ Dậu, kể theo chiều kim đồng hồ thì lần lượt 24 ô như sau: Mão, ất, Thìn, Tốn,Tỵ, Bính, Ngọ, Đinh, Mùi, Khôn, Thân, Canh, Dậu, Tân, Tuất, Càn, Hợi, Nhâm, Tý, Quý, Sửu, Cấn, Dần, Giáp.
Chuyện lưu truyền khi Quản Lộ (đời Tam Quốc) đi về phía Tây gặp mộ Vô Hưu Kiệm thì than thở, không vui mà nhận xét: Cây cối tuy nhiều mà từ lâu không có bóng, bia mộ lời ghi hoa mỹ nhưng không có hậu để giữ gìn, huyền vũ khuất mất đầu, thanh long không có chân, bạch hổ đang ngậm xác chết, chu tước đang rên rỉ, mối nguy đã phục khắp bốn bề, họa diệt tộc ắt là sắp đến, không quá hai năm đã ứng nghiệm.
Quách Phác trong “Táng Kinh” dặn rằng: Thanh Long bên trái, Bạch Hổ bên phải, Chu Tước đằng trước, Huyền Vũ đằng sau, muốn được mồ yên mả đẹp Huyền Vũ phải cúi đầu, Chu Tước dang cánh Thanh Long uốn khúc, Bạch Hổ quy thuận. Khi nhìn thế đất đồng thời phải nhìn màu đất. Nếu ta thăm đàn tế xã tắc ở công viên Trung Sơn Bắc Kinh thì thấy phương đông Thanh Long , đất màu xanh cây cỏ, phương tây Bạch Hổ màu đất trắng bạc, phương nam Chu Tước đất đỏ màu hồng, phương bắc Huyền Vũ đất có màu đen. Giữa đàn cúng, đất màu vàng tượng trưng cho người.
Tứ tượng sinh Bát quái, ngoài tứ tượng đã có lặp lại trong Bát quái còn thêm bốn hướng của bát quái là: Càn, Khôn,Cấn,Tốn. Đó chính là các hướng Tây Bắc, Tây Nam, Đông Nam, Đông Bắc.
Như thế phương Đông có Giáp, Mão, ất, Đông Nam có Thìn,Tốn, Tỵ, Nam có Bính, Ngọ, Đinh, Tây Nam có Mùi, Khôn, Thân, Tây có Canh, Dậu, Tân, Tây Bắc có Tuất, Càn, Hợi, Bắc có Nhâm, Tý, Quý, Đông Bắc có Sửu, Cấn, Dần.
Các hướng thuộc địa chi là: Tý, Sữu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi (12 hướng đia chỉ). Tám hướng thuộc thập can là: Giáp, ất, Bính, Đinh, Canh,Tân, Nhâm, Quý (bỏ Mậu, Kỷ trong thập can).
Các hướng xếp đối xứng gọi là bát sơn đối diện gồm: Càn-Tốn, Khảm-Ly, Cấn-Khôn, Chấn- Đoài. Bắc thuộc Khảm, Đông thuộc Chấn, Nam thuộc Ly, Tây thuộc Đoài.
Phân vị theo ngũ hành thì chính giữa là hành Thổ, Bắc thuộc Hành Thuỷ, Đông thuộc Hành Mộc, Nam thuộc Hành Hoả, Tây Hành Kinh. Còn cách gọi khác: Thuỷ là Nhuận hạ, Hoả là Viên thượng, Mộc là Khúc trực, Kim là Tòng cách, Thổ là Gia tường.
Theo Hồng Vũ cấm thư luận về Ngũ hành tương ngộ thì thuỷ giao thuỷ nam nữ tất dâm. Phương Bắc thuộc Thuỷ. Nếu có nước thâm nhập từ phương Bắc vào khu đất ta ở hay mộ phần thì con cái không ổn thoả. Nếu dựng nhà quay măt hướng Nam thì sau nhà là huyền vũ. Huyền vũ phải là thế đất nhô cao, có gò thoải mới thuận mới đẹp. Gò thoải là thế huyền vũ cúi đầu. Nếu sau nhà là đầm nước hoặc vách núi dựng thì có khác gì huyền vũ mất đầu mà Quản Lộ chê bai ở trên.
Phương Nam là Hoả mà thế đất lại nhọn khác nào như lửa gặp lửa,theo phong thuỷ thì ở đất ấy hay gặp điều kiện tụng. Phương Tây của miếng đất đới Tượng xem xét là Kim mà thế tròn (Kim) thì gia chủ sẻ giàu có, thịnh vượng. Phía đông nhà là hướng Mộc lại có thế đất dài là Mộc thì Môc Mộc tương sinh, trai gái trong nhà giàu sang phú quý.
Ngoài ra quan hệ giữa Thiên, Địa, Nhân còn có quy ước:Tý là Nhân huyệt, Cấn là Quỷ môn, Tốn là Địa hộ, Bính là Địa huyệt, Khôn là Nhân môn, Canh là Thiên huyệt, Càn là thiên Môn.
Trong quá trình xem xét phương vị thì Tiên thiên Bát quái của Phục Hy để phối hợp Âm Dương. Hữu Thiên bát quái của Văn Vương để xếp các Hào Tượng.
Ra đến địa hình cụ thể thì khu đất có thế bằng phẳng là Dương thì gò đống nổi cao lại là Âm. Đât Sơn Cước cương dũng nên chọn làm nhà, đặt mộ ở nơi có mạch nhỏ (long gầy). Đất bình dương bằng phẳng nên chọn vị trí cao để toạ lạc (khởi đột). Khu đất đẹp bên trái có thanh long (mạch nước). Bên phải có bạch hổ (dường dài), thế đất đằng trước có ao đầm toả rộng (chu tước), đằng sau có gò tròn tựa lưng(huyền vũ). Long là Dương, Hổ là Âm. Long Hổ tương nhượng thì gia đinh hoà thuận, trai gái sum vầy.
Núi chủ tĩnh (đứng yên) là Âm thì nước chảy (chủ động) là Dương. Thế đất đẹp là đất có chủ tĩnh quay đầu như động. Nước chủ động lững lờ là lỡ rộng như chảy, như không, lưu luýên dùng dằng. Núi và nước hiền hoà bên nhau, cặp kè với nhau, bảo vệ nhau, nuôi dưỡng nhau là thế đất đẹp. Kiểu luận lý như thế là dựa vào cơ sở trong Dương có Âm, trong Âm có Dương. Điều hoà Âm Dương là điều quan trọng. Luận Âm Dương rồi Toán ngũ Hành sao cho mọi suy tính không trùng điều xấu.
Chọn các thế đất, cách chọn hướng, suy cho cùng sau khi loại bỏ nhũng điều thần bí và mê tín thì cũng chọn địa điểm hợp với điều kiện địa hình, địa chất công trình, địa chất thuỷ văn, vi khí hậu cho môi trường sống được thoả đáng.
Thuật phong thuỷ nghiên cứu những vận động tự nhiên của môi trường sống của con người để mưu cầu sự tiện nghi trong cuộc sống gắn liền với thiên nhiên. Gặp hướng nghịch thì dùng giải pháp che nắng, chắn gió. Nóng bức quá thì dùng điều hoà nhiệt độ.
Phong thuỷ ghi lại dấu của một hiện tượng văn hoá xưa. Đời nay biết mà xem người xưa mưu cầu tiện nghi cuộc sống ra sao.Thực ra thì người xưa chế tác ra thuật phong thuỷ cũng chỉ là cách tìm hiểu thiên nhiên và sự vận động của thiên nhiên rồi hạn chế tác động tiêu cực của thiên nhiên để chung sống vói môi trường sao có lợi cho con người. Nếu loại bỏ những điều mê tín là sự lợi dụng phong thuỷ loè bịp thiên hạ để kiếm cơm thì phong thuỷ đâu có chỉ là dị đoan.
Phương vị theo ngủ hành thì chinh giữa là hành Thổ, Bắc thuộc hànhThuỷ, Đông thuộc hành Mộc, Nam hành Hoả, Tây hành Kim. Còn cách gọi khác: Thuỷ là nhuận hạ, Hoả là Viên thượng, Mộc la Khúc trực, Kim la Tòng cách, Thổ la Gia tường. Đó là Chính- Ngũ- Hành.
Như hình này thì Thổ không ở các phương mà nằm ngay chính giữa. Thuật phong thuỷ chú ý đến toạ sơn, hướng thượng, thực tế ngũ hành chỉ sử dụng tứ hành cho nên còn có tên của ngũ hành là tứ kinh ngũ hành.
Dần, Ngọ, Tuất hợp thành nhóm Hoả. Tỵ, Dậu, Sửu hợp thành nhóm Kim. Thân,Tý, Thìn hợp thành nhóm Thuỷ. Tân, Mão, Mùi hợp thành nhóm Mộc. Mỗi nhóm có ba phương: sinh, vượng, mộ hợp thành nên gọi là tam hợp ngũ hành.
Bát quái ngũ hành phân biệt khác với chính ngũ hành và các loại ngũ hành khác. Bát quái ngũ hành chủ trương lấy hình thể ghép thành cụm mà luận ngũ hành. Bát quái là Càn, Khôn, Chấn, Cấn, Ly, Khảm, Đoài, Tốn.
Theo đồ tiên thiên bát quái thì Càn ở Nam, Khôn ở Bắc, Ly ở Đông, Khảm ở Tây, Đoài ở Đông Nam, Chấn ở Đông Bắc, Tốn ở Tây Nam và Cấn ở Tây Bắc. Đến hậu thiên Bát quái thị địa vị của tám quẻ hoàn toàn thay đổi.
Sự thay đổi này do luận lý Âm Dương giao hợp nên.
Càn là Dương thuần, hút khí âm của Khôn biến thành Tốn. Càn biến hoá lần hai thành Ly, biến hoá lần ba thành Đoài. Khôn là Âm thuần đoạt dương khí của Càn biến lần đầu thành Chấn, lần hai thành Khảm, lần ba thành Cấn. Luận vào ngũ hành thì Chấn thuộc Mộc, Canh ghép với Chấn, Hợi Mùi phối hợp với Chấn do đó Canh, Hợi, Mùi đều thuộc Mộc. Tốn thuộc Mộc, Tân ghép với Tốn do đó Tân cũng thuộc Mộc. Càn thuộc Kim, Giáp ghép với Càn nên Giáp cũng thuộc Kim. Đoài thuộc Kim. Đinh ghép với Đoài, Tỵ, Sửu phối hợp với Đoài nên Đinh Tỵ, Sửu đều thuộc Kim. Khảm thuộc Thuỷ, Khảm phối hợp với Quý, Quý thuộc Thủy, Thân, Thìn phối hợp với Khảm nên cũng thuộc Thuỷ. Ly thuộc Hoả. Càn phối hợp với Nhâm thuộc Hoả Dần, Tuất hợp với Ly nên cũng thuộc Hoả. Khôn thuộc Thổ. ất ghép với Khôn nên cũng thuộc Thổ. Bính ghép với Cấn nên Bính cũng thuộc Thổ.
Tượng trưng của bát quái thì Càn là Trời, Khôn là Đất, Cấn là Núi, Khảm là Nước, Đoài là Đầm nước, Ly là lửa, Chấn là Sấm và Tốn là Gió.
Bát quái chủ yếu dùng minh định phương vị. Chu Dịch chỉ rõ: Vạn vật ra đời từ Chấn, Chấn là phương Đông, bình tại Tốn, Tốn là Đông Nam, Ly là sáng sủa, vạn vật gặp nhau nên Ly là phương Nam. Thánh nhân quay mặt về phương Nam để xét việc thiên hạ. Khôn là Đất nuôi vạn vật. Đoài là giữa mùa Thu, là sở thuyết của vạn vật. Càn chỉ phương Tây Bắc, nơi âm dương sát kề nhau. Khảm là nước, là phương chính Bắc, là nơi quy tụ của vạn vật. Cấn chỉ Đông Bắc, là nơi kết thúc cũng là nơi mở đấu của mọi việc.
Hồng phạm ngũ hành phân biệt khác trên như sau:
Giáp Dần Thìn Tốn Mởu Khảm Tân Thân thuộc Thuỷ
Chấn Cấn Tỵ thuộc Mộc
Ly Nhâm Bính ất thuộc Hỏa
Đoài Đinh Càn Hoại thuộc Kim
Sửu Quý Khôn Canh Mùi thuộc Thổ
Trên đây là loại ngũ hành thông dụng. Ngoài ra còn nhiều loại ngũ hành khác như Tứ sinh ngũ hành, Song sơn ngũ hành, Huyền không ngũ hành, Hướng thượng ngũ hành, Nạp Âm ngũ hành, Địa chi ngũ hành….nhiều vô kể.
Cụ thể của phong thuỷ thì thế đất tròn là Kim, thế dài là Mộc, thế nhọn là Hoả, thế vuông là Thổ, thế như sóng gợn là Thuỷ.
Khi chọn đất phải dựa vào ngũ hành tương sinh mà luận đoán. Tránh ngũ hành tương khắc là điều thầy phong thuỷ tâm niệm hàng ngày.
Tuy thế sự vận dụng ngũ hành trong phong thuỷ rất lung tung. Thầy phong thuỷ cho rằng ngũ hành là cương lĩnh của Âm Dương, là quyền của tạo hoá cho nên mọi việc trong nghề phong thuỷ đều phải dựa vào ngũ hành.
Mọi phương án lập thành đều do lý luận dựa vào ngũ hành mà phán đoán. Hiện nay ta có thể coi rằng nhiều luận đoán là võ đoán. Tuy thế, có một số luận đoán là khả tín.
Luận đoán kiểu ngũ hành tương ngộ, đại loại xem sự sinh – khắc ra sao, xem khi phối hợp sẽ dẫn đến kết quả thế nào. Xin dẫn ra đây để minh chứng những điều luận đoán của thầy phong thuỷ, để chúng ta thấy một luận lý , không phải đây là một cáh luận lý chung nhất và điều đúng sai còn phải bàn.
Khi thuỷ gặp thuỷ thường dẫn đến điều không tốt, gia đình dâm loạn. Phương Bắc là thuỷ mà có nước ngấm vào nhà, vào mồ thì không tốt. Phương Nam là hoả mà có thế đất hình tam giác nhọn, như thế hoả gặp hoả thầy phong thuỷ đoán rằng ở nơi đất ấy thường sinh kiện tụng. Phương Tây thuộc Kim mà có thế đất dáng tròn (kim hình) thì nhà như thế của cải ùn ùn kéo đến. Phương Đông thuộc Mộc mà thế đất lại có hình dài (Mộc hình) gia chủ sẽ có con cái đuề huề, giàu sang phú quý.
Đối với mảnh đất làm nhà hay nơi huyệt táng, nếu lấy vị trí ngôi nhà hay ngôi mộ làm mốc phương vị thì phong thuỷ gọi bên trái là Thanh long, bên phải là Bạch hổ, đằng trước là chu tước, miếng đất ngay sát nhà là Minh đường, đằng sau là Huyền vũ.
Tốt nhất thì bên trái có dòng nước nhỏ chảy lững lờ cho đúng nghĩa Thanh long(con rồng xanh). Bên trái có nước chảy theo dòng, cha và con trai vinh hiển mát mặt với đời. Bên phải có Bạch hổ (hổ trắng) lại có đường dài men theo rìa đất thì con gái trong nhà đảm đang sung sướng. Bạch Hổ mà lại có đình chùa miếu mạo hoặc vũng úng ngập là điều kiêng kị. Đất ở như thế dễ sinh tử biệt trong nhà. Trước nhà có ao hồ ôm đảo nhỏ hình tròn thì con gái trong nhà vẻ vang phú quý. Chu tước có sông dài bao bọc làm thành án thư như hình cái bàn kê trước nhà, trước mộ thì con cái trong nhà gaìu sang hiển vinh. Thế đất này gọi là Thiên cát (có lầu gác nhà trời). Sau nhà thế đất đùn tròn như mây đùn,xúm xít sum vầy gọi là huyền vũ có thế bích dài (đài biếc), lộc không được để hố sâu. Truyền thuyết kể rằng sau mộ Tổ Khuất Nguyên bên Tàu có hố sâu nên ông này chết uổng.
Núi non, sông nước, thiên nhiên, gò đống long mách sắp xếp trên mặt đất đã tạo cho hoạ phúc cho người lưu tới. Thầy phong thuỷ cho rằng mình có nhiệm vụ tìm ra chỗ ở, chỗ táng cho người ở, con cháu người táng được điều lành, được phúc ấm. Muốn có thế đất như ý phải học qua lý khí và thấu tìm. Điều hết sức quan trọng trong phong thuỷ bản thân người thầy phải tu nhân tích đức. Tiên tích đức, hậu tầm long: Cái gốc của tìm đất là thầy phải ăn ở, suy nghĩ cho có nhân bản, có đạo lý làm người. Đã gọi là tích đức thì không phải ngày một ngày hai mà có ngay đựoc. Chỉ hăm hở tìm đất thì sẽ bị trời che mất mắt, lòng dạ tối tăm, đất đẹp trước mắt mà như mù, không thấy được. Đức sáng thì có khi thế đất hay, chẳng cần luận lý cầu kỳ mà tâm đức với thiên nhiên đã đồng cảm, lòng thấy ngất ngây tận hưởng mà khi đã tích đức tu nhân tạm cho là đủ thì chẳng cần đất đẹp xấu làm gì. Những người đã đạt đạo lý ấy, tự thân nhận thức cái có với cái không hầu như nhào quyện. Đến đây, câu chuyện phong thuỷ dẫn thành triết lý cuộc sống, không còn đơn thuần là phép địa lý thực hành nữa. Tiếp tục bàn không phải là đối tượng của bài viết này.
PGS. LêKiều
Trường Đại học KiếnTrúc
Nguồn UIA
Nguồn: http://thegioivohinh.com/diendan/showthread.php?126-Chuyện-người-xưa-chọn-đất-làm-nhà
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)