Translate

Tìm kiếm Blog này

Tìm kiếm Blog này

Thứ Ba, 18 tháng 7, 2017

Những hình thế Sơn Long không nên dùng

Những vùng đất có Long Chân huyệt trong Sơn thuỷ tự nhiên là không nhiều; khi tìm huyệt ở vùng núi non thì những hình thế bất lợi cần tránh là không ít! Trong “Táng thư” đã nêu ra 5 loại “hung sơn” không thể dùng.

1. Đồng Sơn: Chỉ những ngọn núi trọc cây cối không sinh trưởng (còn gọi là “vô y” hay “bóc long bì”) do những ngọn núi này tài nguyên cạn kiệt, sinh khí đã tuyệt nên không thể là cát địa.
2. Đoạn Sơn: Chỉ sinh khí đến từ sống núi. Nếu sống núi đứt đoạn thì sự vận hành của khí bị ngưng trệ, mà khí mạch không thông tất không phải là nơi cát địa.
3. Thạch Sơn: Đá là phần xương cốt, còn đất là máu thịt của một ngọn núi. Mà sinh khí chỉ có thể vận hành trong đất, nên núi đá tất không cát.
4. Quá Sơn: Cát huyệt thường ở nơi hội long, nếu hướng núi xuyên thẳng vào mộ thì sinh khí khi đi qua táng huyệt không thể hội tụ được. Cũng không tốt.
5. Độc Sơn: Sinh khí hội tụ ở nơi có quần long giao hội (huyệt vị bao quanh bởi quần long), độc sơn tất không có sinh khí, không cát.

Ngoài ra, danh sư đời Minh là Từ Thiện Tục, Từ Thiện Thuật (hai anh em song sinh) trong cuốn “ịa lý nhân tử tu thức” có ghi các hình thế “oán hình sơn”, “vô thần vô vi” cũng thuộc hung địa.

* “Oán hình sơn” chỉ hình thế núi: Thô ác, Tuấn Cấp, Phá Diện, Ngoan Ngạnh.

- “Thô ác”: Khí bạo. Chỉ hình thế núi hiểm trở nhưng không vững vàng, không có hình Cục mềm mại, thanh thoát.

- “Phá diện”: Chỉ nơi có huyệt hay huyệt tinh bị đào bới khiến diện mạo Sao bị phá hoại. Nơi lập huyệt quan trọng nhất là phải còn nguyên vẹn, nếu phá vỡ có thể dẫn đến Khí mạch kiệt quệ; táng ở đó chỉ có hoạ chứ không có phúc.

- “Ngoan ngạnh”: chỉ Hình thế núi thô cứng, không linh hoạt. Khi lập huyệt nên chọn nơi sinh khí dồi dào, mềm mại; nếu Sơn hình quá cứng nhắc thì không thể có sự kết hợp hài hoà được.

- “Oán hình Sơn”: thích hợp với những ngọn núi dùng làm điểm tham quan du lãm, không thể dùng để xây dựng âm, dương trạch. Càng không nên kết hợp những cái đối lập như Ai tinh Nhị, Tam, Ngũ, Thất, Cửu trong thuyết Huyền Không. Nếu không khi “thất lệnh” sẽ mang lại những hậu quả nặng nề.

* Hình thế “vô thần vô khí” chỉ Đơn Hàn, Ao Khuyết, Ung Thũng, Tán Mạn, Hư Hao, Sấu Tước, Tiêm Tế, U Lãnh.

- “Đơn Hàn” chỉ Cô sơn độc long, xung quanh không có gì khác. “Táng kinh” gọi đó là “độc sơn”; do long đơn độc nên khí không tới, huyệt lộ thì sinh khí không tụ. “Đơn hàn” chỉ sự bần cùng, đơn độc. Một số thầy địa lý nhìn thấy những ngọn núi đứng một mình nhưng rất hùng vĩ, cho rằng đó là đẹp nên dùng; đó là hoàn toàn sai lầm. Cần phải biết rằng Tinh phong Đột lộ tất có nguyên nhân của nó, dù đẹp nhưng cũng không được dùng.

- “Ao Khuyết”: chỉ nơi đặt huyệt, vì lồi lõm khiếm khuyết mà gió thổi tán khí. Người xưa chia “Ao Phong” ra thành:
+ Phía trước có “Ao Phong” cho thấy không phải không có núi mà là hung sơn; hơn nữa Minh Đường kiệt quệ, kéo theo ụ đất, cho thấy sự bần cùng, thất bại.
+ Phía sau có “Ao Phong” cho thấy huyệt tinh bất khởi, không thể trông chờ, đoản mệnh, không có con cháu.
+ Bên trái có “Ao Phong”: Thanh long nhu nhược( thấp, bé) không khuyết, phòng lớn cô quạnh , ảm đạm.
+ Bên phải có “Ao Phong” cho thấy Bạch Hổ đứt đoạn, không liên tục, phòng nhỏ bại tuyệt thiên vong
+ Hai bên sườn có “Ao Phong” chịu ảnh hưởng về đường sinh nở, chủ bại tuyệt.
+ Hai chân có “Ao Phong”,do nơi bái lễ của con cháu thấp, nếu không Xung, Xạ Đường Cục cũng là Thuỷ Khẩu Tà Phi, gây tán gia bại sản.
+ Trong “Ao Phong”, cần phải lưu ý đến luồng gió thổi từ phương bắc (Phương Cấn), nhẹ thì mắc bệnh thần kinh, nặng thì người mất nhà tan.

- “Ung Thũng”: chỉ ngôi sao Thô ung phì thũng nên không thể Khai Oa, Kiềm diện. Nếu do lỗ mãng, mê muội mà táng nhầm, tất không thể cát. Nếu gặp tổ hợp Huyền Không Ai Tinh Nhị Cửu, Cửu Nhị, Ngũ Cửu, Cửu Ngũ, tất sinh hèn nhát,ngu đần.

- “Tán Mạn ”: chỉ địa hình rộng rãi, bằng phẳng, lập huyệt quý ở nơi hội tụ; nếu huyệt trường bằng phẳng, mênh mông hoặc giống “Ngưu Bì”; thì không phải Chân kết; thất bại triền miên, nghèo túng.

- “Hư Hao”: chỉ Long khí suy nhược, Địa khí bị phái tán do những con vật thường ra vào lòng đất như: Kiến, rắn, chuột… (Địa nhiệt tán thất). Nhiều trường phái địa lý rất kiêng kị điều này, những nơi Thổ hư Khí hao tuyệt nhiên không được sử dụng.

- “Sấu Tước”: chỉ hình thế núi ở những nơi chọn huyệt mỏng manh, bạc nhược; giống như một người khí huyết suy yếu, thì thân thể cũng gầy mòn. Hình thế núi này tuy là Nhân Cách Long nhưng cũng chỉ có thể dùng để xây chùa miếu mà thôi.

- “Tiêm Tế”: chỉ nơi tìm huyệt nhỏ bé nhưng rất sắc. Đổng Đức Chương từng nói “Mũi thương chưa đâm xuống thì con chuột đã trúng thương rồi” - cho thấy những nơi địa thế hiểm trở không thể tạo táng.

- “U Lãnh”: chỉ đất âm u lạnh lẽo; thường có hiện tượng “Dưỡng thi”.

Trong cuốn “Túc tiên địa lý tâm pháp” của Danh sư Túc Trí Thâm - người Ninh Ba,Triết Giang cuối thời Minh, đã ghi lại một cách tỉ mỉ những hình thế cần tránh khi tìm huyệt như: Mạch không rõ ràng, Giới thuỷ có lưu nhưng không hợp; Minh Đường nghiêng về phía trước, Sa đầu hướng ra ngoài, Trung Nhũ không Dương, thiếu không gian trái phải, Hướng núi không rõ ràng, Giới thuỷ bất phân, lưng núi bằng phẳng, Hình thế mỏng manh nghiêng ngả, Bồ Tát diện, phần đầu thì ẩm ướt, chân núi bị cắt xén, đỉnh núi bị xuyên chọc, lưng núi cong, hình mỏ vịt, đầu ngỗng, bụng lợn, chân ngựa, miệng lươn, muôi lật, hình cái rổ… đều là huyệt giả. Có một số huyệt giả tuy đã bỏ nhiều công sức để bù đắp khuyết điểm nhưng cũng chỉ là hành động cầu may trong hoạ mà thôi! Tốt nhất là nên tránh.

(st)

Thứ Ba, 11 tháng 7, 2017

KHAM DƯ HỘI YẾU - CHƯƠNG  5  THỦY  PHÁP

   E  .                     CHƯƠNG  5  THỦY  PHÁP .
1,e                               Thủy  Pháp  Tổng  Luận   1.
Âm trạch địa lý sa thủy đồng trọng, cổ nói thủy tú sa minh tức
thị địa, tiêu sa nạp thủy pháp trung tầm, nên biết thủy với huyệt 
hướng quan hệ không kém gì sa, bởi nước là huyết mạch của long,
là ngoại khí của huyệt, long đến nếu không có nước đưa thì không 
rỏ tung tích, kết huyệt không có nước ngăn thì không rỏ nó ngưng
long huyệt nhờ vào nước mà chứng ứng, Dương nói; vị khán sơn
tiên khán thủy, hữu sơn vô thủy hưu tầm địa, xưa nay kham dư gia
xem trọng thủy là vì thủy ứng họa phúc đến mau hơn sơn, chí như
thẩm biện thủy chi cát hung, kỳ pháp thậm đa, phàm thủy thân chu  
tước triền huyền vũ, nhiểu thanh long bao bạch hổ giả, là dưỡng 
âm chi thủy, đáo đường thượng giai cũng bối nhập hoài loan bảo
nan tụ là cát, núi chê thô ác nước muốn thanh trừng, nơi long kết
huyệt có nước tam tung tứ hoành khúc khuất giao lưu như dệt gấm
đó là nơi sa thủy giao luyến vậy, không cần biện thủy thần xuất 
nhập hướng hà phương, mà triều hội, hoặc xuất nơi giang hồ, biện
minh phương vị long huyệt chi mỹ ác tự tri, phàm đại địa tất hữu 
nghịch sa chi thủy, hảo địa tất hữu nghịch sa chi lưu, thủy nghịch
1,e 

2,e                              Thủy  Pháp  Tổng  Luận   tiếp.
long, long nghịch thủy, là phu phụ giao thành,thủy như khúc khuất 
có tình, tất hợp tinh quái vi cát,cửu khúc thị tú thủy, khước vi ngoại 
ứng, mà địa kết ư nội,lại càng quí trọng, tam đài là triều án khước tại
đối diện, nhi huyệt kết ư tiền,dể gần dể phát, thủy chi lai thế,đương
tri lưỡng thủy hợp lưu gọi là giao, quan lan cẩn mật gọi là tỏa, tam
nguyên khuất khúc gọi là chức, chúng thủy hội tụ gọi là kết, lưu 
phá long xứ minh đường là xuyên, tiệt chân không long hổ là cắt,
thẳng di là tiển, trực xung là xạ, chân long bất phối hung thủy, cát
thủy không hướng chân long, nước vừa qua huyệt phản gạt ra, thì
một xu cũng không đáng,nước nhập hoài mà ôm ngược lại một phát
bèn suy, bình điền thủy bình tán du hưỡn không xung xạ cắt không
đới hung sát, phàm huyệt được đó tối cát,nhưng cũng phải có tình 
đáo đường thì mới thật tốt, đìa nước có tự sinh thành cũng là trữ tài 
lộc, huyệt tiền mà có rất tốt, thãng võng khai trì đường ở huyệt tiền
thương tàn phát tiết long khí, lập chiêu hung họa, lại như bên mộ
trạch nguyên có thanh tuyền hoạt thủy lai khứ đắc nghi ,lúc tác mộ
thông được ghe xuồng, khi tác huyệt xong lại làm đìa nuôi cá, hoặc
lập bít lên làm ruộng vườn thí tai hại lập đến .
******

2, e
3e           Luận  Thủy  Phát  Nguyên  Đáo  Cục
Thủy phát nguyên là từ minh đường ngược dòng tìm lên để xem
nước từ đâu đến,thủy nguyên sâu dài tắc long khí vượng phát phúc 
lâu dài, ngắn cạn tắc long ngắn phát phúc không lâu dài, thủy đáo 
cục là lai đáo nhập đường mới cát, bằng nước từ xa đến đường lại 
quay lưng đi gọi không đáo đường, lại tuy đáo đường nhung không
hạ quan thu thủy, hoặc không chảy đến nơi hạ sa đón chặn gọi là 
bất nhập khẩu đều vô ích, như nước tại nơi nghịch sa dù huyệt tiền 
không thấy cũng luận như đáo đường,gọi là ám củng còn tốt hơn 
minh triều đại địa thường có, thế tục thường nói muốn tống long  2
nước đều nhập đường mà chả hiểu thuận cục khứ thủy địa có tjhể 2
nước đáo đường rồi hợp ở trước mặt, nếu không phải khứ thủy địa
thì duy muốn 1 bên đáo đường mà thôi, nhưng sơn phát nhân đinh 
thủy phát tài, dù đáo đường nhập khẩu chỉ phát phú không phát
nhân đinh quan quí vậy .
3e  



Luận  Thủy  Xuất  khẩu  Khứ .
Xuất khẩu là nước đáo đường rồi phải chảy đi ra nơi đó là xuất 
khẩu, muốn được cong vòng, uốn khúc,quấn quít tụ sâu, thiết kị đổ
nghiêng chảy thẳng, nơi xuất khẩu có la tinh hoa biểu hãn môn 
quan lang sa trùng điệp để chướng lại tắc chân khí nội tụ phát phú /.

Thủy  Khẩu  Khán  Pháp .
Kinh vân ;  Nhập sơn quang  thủy khẩu, đăng huyệt khán minh 
đường, phàm nơi thủy đến gọi là thiên môn, nếu đến mà không thấy
nguyên lưu gọi thiên môn khai, nơi thủy đi gọi địa hộ, bất kiến thủy 
khứ gọi địa hộ bế, thủy chủ tài môn khai tắc tài lai, hộ bế tắc xài tiền
không hết, nước sâu tài nhiều nước cạn tài ít, thủy khẩu như cửa 
nhà ở, phàm nơi nước ra có 2 núi cao tung là quí địa, cũng có núi 
thấp khép ôm là đất công danh, nếu không hạ sa khép cản là hạ địa
như có quan lang 3 hay 5 tầng càng lớn càng lâu dài,dù hạ sa có
khép thu còn phải giao tỏa mới thật tốt, thủy khẩu cao vút kẹp kín
là đất đại lực, thủy khẩu thấp bằng hơi rộng tắc địa lực khinh vi,
thủy khẩu nội cũng muốn tứ sơn dung hội tứ thủy hoàn nhiểu 
trùng bao 1, 2, dặm chí 6 ,7, chục dặm, mà sơn hòa thủy hữu tình 
triều cũng tại nội tắc hữu đại địa, thu 5 , 6, dặm 7, 8, dặm là trung địa
cẩn thu 1,  2, dặm, bất quá 1 sơn 1 thủy chi nhân tài địa .
4, e


  5 e                           Hướng  Y  Thủy  Lập
    Phú quí bần tiện tại thủy thần, thủy thị sơn gia huyết mạch tinh
thức đắc lập hướng thủy lai khứ, cát hung họa phúc thủ trung tùy .
âm thủy đến lập âm hướng, dương thủy đến dương hướng nên, Sa
có cát hung toàn tại tọa độ tiêu chi, thủy có cát hung toàn tại lập 
hướng để mà thu,địa bất tuyệt nhân thủy tuyệt nhân, thủy bất 
tuyệt nhân hướng tuyệt nhân, do đó tiêu sa nạp thủy chi công có 
tác dụng lớn, nên biết huyệt ỷ long mà thừa nội khí, hướng ỷ thủy
mà thừa ngoại khí, phàm lập ngoại hướng tổng y thuỷ vạn bất khả
tham phong tiêm (nhọn), dong sư không hiểu thương bảng thủy 
ngộ nhận triều bần biến mộ phú, quá không hiểu đó là sát thủy hổn
tạp mà đến, lệ như 1 hợi hướng trước mật tuất kiền nhâm tý quí
thương bảng thủy lai gọi là ngũ quỉ náo phán, phạm nhằm chủ toàn 
gia tru lục, nên thận trọng vậy, lại như 1 ngọ hướng mặt tiền tốn tị
bính đinh mùi, cũng là thương bảng thủy lai, tuy họa nhẹ hơn hợi
hướng, chung chủ thổ huyết mắt mù,trộm cắp cháy nhà, như phạm
 hoàng tuyền thủy cũng bị gia phá nhân vong (sẽ nói ở bài sau )
                                                              5 e




Thứ Ba, 4 tháng 7, 2017

KHAM DƯ HỘI YẾU - CHƯƠNG  4.  SA  PHÁP

 D 17.                 Chương  4.  Sa  pháp .
1. d                          Sa  Pháp  Tự  Ngôn
Sa =  là núi ở trước sau tả hữu của huyệt, phàm tiền triều hậu lạc tả
long hữu hổ, la thành thị vệ, thủy khẩu gò núi nơi nầy đều là sở thuộc
Tạ Song Hồ nói cao lớn là núi, thấp nhỏ là sa, thì thất bản chỉ vậy, đại
để nơi chân long dung kết, tự có chư sa cung ứng, duy long huyệt bất
chân tuy có diệu sa cũng vô ích, Nên Liêu kim Tinh nói - long tiện nếu
mà sa được quí, phản biến vi hung khí, Tiện sa như bằng gặp quí long
sa cũng bất thành hung, nói vậy là huyệt trọng hơn sa, Tăng công lại
nói- trước xem kiếp sa (ác sa) khởi hà phương, kiếp sa chiếu  xứ  toàn 
vô địa, lại nói sa trọng hơn huyệt, tóm lại sa dù tuỳ long huyệt, nhưng 
sa sở  hệ cát hung cũng  rất khẩn yếu, đâu thể  lơ  là được, Nhưng  sa 
pháp cực vi phức tạp kể không  hết, toát yếu không ngoài lấy nhọn 
tròn vuôn vi cát, phá hoại tà trắc vi hung, tú  lệ sáng sủa là cát, tài 
nham , bôn tẩu  xú ác vô tình là hung, duy lấy gần huyệt làm chuẩn, 
tắc vô ngại, nói về sa hình- tắc như  ngự bình, cẩm trướng, ngự  bút ,  
kim  lư, quí  nhân  thiên mã, văn bút, cáo trục, kim thương, ngọc ấn, 
điện các ,lâu đài, triển cờ, đôn cổ, ngọc đái, kim ngư, trải bào, trác hốt  
chi loại, đều là cát sa, như  đào bính (bỏ lượt), trịch (ném) thương, yên 
bao (túi thuốc) , phá  y, bão kiên, hiến hoa, thám đầu, trắc diện, đề  la 
(mang giỏ), phục tiêu, đoạn đầu, ngọa thi chi loại, đều là hung sa , 

1. d 

2. d                           Sa  Pháp  Tự  Ngôn  2.
Chí  như  xem sa bí quyết, trước nhận tinh thể làm chủ  ,
thứ  phân biệt sa  phú quí tiện 3 đẳng .
Liêu thị phân biệt sa phú, quí tiện 3 đẳng, mập tròn chính chủ phú,
lớn mà tú lệ chủ quí, nghiêng lệch ung thủng chủ tiện, lại cần có tình
vô tình, hướng ta, nghinh ta là có tình, bối diện trở ngược là vô tình,
khi xem sa đứng nơi huyệt dùng la bàn xem ngoại bàn cách định thủy 
khẩu xem long hệ chữ gì nhập thủ, ngọc đường hà phương, lâm quang
hà xứ, phương nào có mỹ sa, tức nhận thủy  lập 1 hưóng để mà  thu, 
như  long thượng bất năng thủ dụng, cũng nhận thủy lập hướng, bát 
(chuyển) kỳ sa vi hướng thượng chi lâm quang, như  thử  tác dụng, 
quí nhân mới  về ta sở dụng, đại địa đại phát, tiểu địa tiểu phát, có thể 
thao túng mà được vậy ./
Ngoài ra còn phải kiêm nhận rỏ hình thể thuộc tinh gì, mới biết phú
quí to nhỏ, với cùng thông đắc thất, phân biệt tinh thể cát hung lấy  
5 hành làm chủ, như ;
Xem đồ hình  ở  trang  sau ,


2, d
1)     Kim tinh -  thể cao mà tròn chính thể Kim, tên gọi Thái Dương
lại xưng Tả Phụ, sa tên đại vũ kim, hiến thiên kim, vân trung kim,các
tinh duy thử kim tinh tối đa, hình cũng biến hóa bất nhất,vuôn mà
hơi tròn tên là hữu bật còn gọi Thái Âm,sa tên chủ phủ,thấp mà dài 
là nga my, khúc hơi tròn là vũ khúc, lại kêu kim thủy sa tên tam đài,
nhọn lên là hoa cái,tròn lên là bửu cái,2 cánh xệ xuống là phi phụng,
mờ mà nhỏ là chiếu, nón, đầu mình tròn ngay ngắn là kim chính thể
sa tên phúc chung,các kim tinh nầy nếu có 1 hay 2 gò lên,hoặc như
măng mọc lên ở xa, nơi vị trí chính ấn,chủ xuất đài tỉnh quan quí
2)     Mộc tinh - thể tròn mà thẳng, thân đứng tung lên là chính thể
mộc, tên gọi Tham Lang, còn gọi Tử  Khí, sa gọi quí nhân, tinh thể
nầy nếu xung tiêu nhập vân định xuất trạng nguyên tể tướng,
3)    Thủy tinh - thế như rắn sống, hoặc như sống ba đào là chính
Thủy thể, tên thanh kỳ còn gọi quật khúc, sa kêu Văn Khúc, thể 
sao nầy trên cao dưới thấp ở nơi chính ấn chủ xuất thông minh tú 
mẩn chi sỹ, trên đây là chính thể của ngũ tinh.
4)    Hỏa tinh - thể nhọn mà bén hơi lệch nghiêng như ngọn lửa bị 
gió tạt thì mới là chính hỏa thể, tên là Liêm Trinh, còn gọi Táo Hỏa,
cái ngọn lửa không động mà 2 gò đồng ra tên gọi Song Tiến sa gọi
Văn Bút, tinh thể đó  cư chính ấn định xuất Tể Tướng Tam Công,
5)     Thổ tinh -thể tròn mà vuôn là chính thể Thổ, Tên Cự Môn còn
kêu Thiên Tài, sa tên ngự bình, thấp gọi ngự thư đài, trong oa có 
bao gọi tàng kim, 2 đầu cao thấp là thiên mã, như cao tung cư chính 
ấn, chủ đại phú tiểu quí, 6 đinh đại vượng,
4 d



Khán  Sa  Bí  Quyết   Ngũ  Tinh  Biến  Thể
Lại có biến thể hình thái bất nhất,chỉ cần tới thủy khẩu cư chính 
vị, củng ứng hợp nghi đều là có ích, chí ư  xem  5 tinh sa thể, cũng
phân cao trung đê 3 thể, phàm cao nhập vân tiêu chi sa, sức to lớn
đệ nhất đẳng, định chủ xuất tướng nhập tể, ngay tròn vuôn chính
cao vài mươi trượng là trung đẳng chi sa, sức kém hơn, chủ tiểu quí 
phú hậu, hòn vú thấp nhỏ, sa cao vài trượng là hạ đẳng sa, khí lực 
lại kém thêm nửa,chủ ứng đinh tài lưỡng vượng trên đây đều nói về
kết địa của cao sơn long ,
Chí  ư  bình cương long kết địa, sa mà cao trên 5 hay 6 trượng sở
ứng cát hung cũng y cao sơn làm chuẩn, lại có bình dương long kết
địa nếu tiền hậu tả hữu có sa  cao vài trượng cũng theo cao sơn mà
luận, sở ứng phú quí càng lớn càng lâu dài, vì bình dương long kết 
địa, lấy sa thấp làm chủ, nếu được hình như sa bình cương càng 
thêm có sức, bình cương long kết địa mà được cao sơn chi sa  phát
phúc càng hậu, nếu 3 thứ nầy mà ngược lại thì có sa cũng như 
không, tóm lại long với sa 2 thứ phải tương phối hợp, sa tốt long 
cũng tốt, sa hỷ khai diện hữu tình,thế hướng ta thân,thật vì ta dụng
toàn tại tiêu nạp công phu, nếu như phản bối vô tình thì có ích chi.

6, d

Biện  Sa  Phương  Vị .
Tiêu sa tất phải biện phương định vị, xét xem kỷ hình thế cao 
thấp lớn nhỏ, thân tả thân hữu mà đoán tất chuẩn, như  Nhâm sa 
cao tại trước, Kiền sa thấp tại sau, tác thổ cục, Nhâm vi sinh sa tại 
tiền  Kiền vi sát sa tại hậu, tại tiền đến trước tắc gần, tại hậu là đến 
sau  nên  xa, vi sinh nội, sát ngoại, sinh cao sát thấp, sinh đại sát     
tiểu kỳ dư 4 cục y đó suy tường, như  Khôn thấp tại trước, Ngọ cao 
tại sau tác kim cục, vi nô nhỏ đến trước tại nội, sát lớn đến sau tại 
ngoại tác mộc cục, vi vượng nhỏ đến trước tại nội, tiết lớn đến sau 
tại ngoại tác thủy cục, vi  tiết nhỏ đến trước tại nội, nô lớn đến sau 
tại ngoại tác hỏa cục, vi sinh tiểu đến trước tại nội, vượng đại đến 
sau tại ngoại, tác thổ cục, vi sát tiểu đến trước tại nội, sinh đại tới  
sau tại ngoại, lại như thân tuất 2 sa đều cao,thân tả tuất hữu,tác kim      
cục là vượng tiết đồng hành, tác mộc cục, 1 sát 1 sinh đồng hành,   
tác thủy cục sinh vượng đồng hành, tác hỏa cục vi nô, sát tịnh 
hành tác Thổ cục vi tiết, nô tịnh hành, lại như 1 nô cao đại tại ất, 
liên tiếp hạ thấp chí nội, lên phong nhọn nhỏ, kim cục, vi sát cao 1 
trượng quá sinh 10 trượng, thủy cục, vi sát đại tiên thu, nô tiểu hậu 
thu Thổ cục vi vượng tiểu tiên thu, sinh tiểu hậu thu; thủy cục, vi 
nô đại tiên thu tiết tiểu hậu thu; hỏa cục, vượng tiểu tiên thu, tiết 
đại hậu thu đáo chi tiên hậu, viễn cận tương giảo, đại tiểu cao đê,
thu đệ ân tình 24 sơn sa pháp tự  năng liệu  như  chỉ chưỡng vậy /.

7, d
5 d.                     Luận  24  Sơn  Sa  Quí  Tiện .
Kiền Sa =           Kiền phong xung thiên tú nhập vân
Long đầu độc bộ hoàng kim môn
Nhược kiến đê viên tiểu nhi lệ
Định chủ công danh thành phú gia
Hợi Sa =               Tị hợi sơn cao tựa tháp kỳ
Dần giáp, giáp chiếu phú quí tề
Mão dậu cấn tốn tứ long kết
Phú chủ bá vạn cánh hữu dư
Thảng ngộ ly long lai kết cục
Khuynh gia đãng sản tuyệt nhân đinh
Nhâm Sa=          Điệp điệp nhâm sa kiến khảm phương
Dương long dương hướng nhi tôn xương
Ngọ nhâm lưỡng thủy đới tài  lai 
Ngọ sa cao tung tất phát quí
Thiết kị hợi phong cao chiếu huyệt
Cổ bồn thứ đệ khắc thê phòng
Khảm Sa =         Khảm phong xung thiên cao nhập vân
Tú lệ độc bộ hoàng kim môn
Cấn phong như bút đáo tam đài
Bính ngọ đinh phương đối chiếu lai
Quí  Sa =              Tý ngọ mão dậu hỷ tương phùng
Giáp canh bính dần thị vi tôn
Hiên quần chư phương đô tương kị
Hựu kị sinh ư mộc dục phương
Sữu Sa =           Ất Tân nhị sơn cao thả viên
Sữu mùi chủ phú cấn chấn quí
Tứ kim triều lưu tịnh tọa sơn
Định xuất cố tật dữ du đảng
8 d


9. d                       Luận  24  Sơn  Sa  Quí  Tiện .
Cấn Sa =           Cấn  phong như  bút liệt tam đài
Tam đài tề tú thôi  quan nguy (nga)
Dữ quốc hôn nhân thực thiên lộc
Nhất phong độc tú hoàng giáp khôi 
Dần Sa =           Dần giáp phong cao thế lực hùng
Tiêm tú phì viên xuất tam công       
Đê trường phương viên các hữu biệt
Sư  vu  bác dịch hữu danh truyền
Giáp Sa =          Giáp phong giáp long xuất phú quí
Khôn sa như bút trạng nguyên sinh 
Tốn sơn song triều tể tướng vị
Ấn cư dần giáp xuất sư  vu .
Chấn Sa =         Chấn canh nhị sơn nhập vân biểu
Anh hùng tể tướng chưởng binh quyền
Hợi phong cao chiếu xuất vũ tướng
Kiền tốn tề cung xuất văn quan
Ất Sa =                Tứ duy phong cao điệp điệp khởi     
Bát tướng triều lai chân khả hỷ
Tối kị tốn thìn nhị sơn cao
Áp long trú thần chân khả sỉ
Thìn Sa =         Đinh phong cao trác quí sơn tiêm ( chủ đa thọ)
Khôn cấn nhị phong tương giáp phụ (chủ phú quí)
Dậu long kiến chi xuất ám  á
Khuyết thần lộ xỉ hàm hồ thinh
Tốn Sa =           Nhất phong tú xuất nhị đăng khoa (anhemđồngkhoa)
Tốn khởi lăng vân xuất kinh lược
Tham quân tư hộ tiểu phong loan
Đê viên phương chính chủ vi phú
9. d 

10. d                       Luận  24  Sơn  Sa  Quí  Tiện . 3.
Tị Sa =                Tị sa như  bút tựa hỏa tinh
Năng vă năng vũ sản hào anh
Thìn phong tiêm nhuệ cao thả tung
Vi quan cực phẩm chấn triều trung .
Bính Sa =         Tốn phong cao trác bính thủy triều
Định chủ quí hiển trường thọ khảo
Bính dữ đinh phương tam sa cung
Diệc chủ thực lộc tại triều trung
Ly  Sa =             Ly phong độc xuất đương tinh mã
Bính đinh nhị phong khởi vô giá
Ngọ phương sa thủy nhược triều huyệt
Long hổ bão vệ xuất công khanh
Đinh Sa =         Tứ duy bát tướng bính đinh thủy
Xạ sách kim môn triều đệ nhất
Bính đinh chính phối đắc hợi cấn
Phú quí song toàn phúc thọ trường 
Mùi Sa =           Thìn tuất sữu mùi tứ cao phong
Hàn lâm tiến sỹ trạng nguyên công
Dương long vô ngã nan tác thế
Âm long khiếm ngã thiểu tổ tông
Khôn Sa =         Khôn long đoan lập chính như khuê
Định bốc công danh đoạt chiếm khoa
Hình tựa kỳ mao tướng quân tố
Nhũ phong đê tiểu quận nha quan
Thân Sa =         Thân phong cao trác nhập vân tiêu
Trạng nguyên khoa thủ tánh danh hương
Thìn tuất sữu mùi thiên nhai ngoại
Ngọc đường kim mã hiển văn chương
10. d


11. d                       Luận  24  Sơn  Sa  Quí  Tiện . 4.
Canh Sa =         Đâu mâu kiếm kích xuất canh đoài
Tướng quân uy vũ trấn biên quan
Canh yếu hào hùng tu bách bộ
Uy quyền hiển hách điền thiên mạch
Đoài Sa =           Tốn phong tương chiếu đáo vân tiêu
Tân phong tương phụ đồng hữu liêu
Cánh kiêm dậu phong sơn củng bão
Định vi vũ tướng lập công cao
Tân Sa =            Tốn tân nhị sơn như  văn bút
Diệu khí cao đằng công danh hiễn
Sơn hình tuy mỹ vị hung phương
Thiết kị tứ kim phi trung xích
Tuất Sa =           Thìn tuất sa cao song chiếu huyệt
Phú quí song toàn khoa thị triều
Ất tân đối chiếu thu hàn uyễn
Tý ngọ ất long phú vô kiêu .


Kỳ dư  quan quỉ cầm diệu 4 tinh sa, đả có luận nghĩa ở quyển 1

11. d 

1 ,
bởi án thì thấp mà gần như bàn làm việc, triều thì cao lại xa như  bá 
liêu triều cận, phàm đất có đủ cận án viễn triều tất phát phú quí,bởi
có cận án thì huyệt tiền chu mật, minh đường không bị rổng toát 
tán khí , có viễn triều tắc cục thế hồng đại không bị bế tắc bức xúc,
Án sơn cũng có sinh từ  bản thân sơn vòng vào trước huyệt để làm
án thâu nước quan nguyên thần, cũng có dùng ngoại sơn làm án .
án muốn thấp bé hữu tình, không cao không xa, không nghiêng 
không thô ác, không quay lưng, cần nước chảy ngược dòng, nếu 
chảy thuận thì phải ôm bọc qua cung trước mặt cũng cát, còn  việc 
xa gần thì không cần câu nê lắm, vì án quá cận sẽ bức trất,lại có câu
duổi chân đạp được án, phát lúc tam niên bán,( gần vừa phải thì  3
năm rưởi sẽ phát ).nếu không có án sơn mà có long hổ 2 sa vòng
cung ôm giao nhau thì như có án vậy, án sa muốn thấp nhỏ như 
hình ngọc kỷ, hoành cầm, nga my, kim sương ,ngọc ấn, đẳng …chỉ
cần đoan chính tròn xão,có tình ôm lại là cát,nước thuận chảy thoát
đá nham phá bể, quay lưng vô tình là hung .

12. d 
14.d                                         Triều  Sa .
Chí ư  triều sa  cũng muốn có tình, và độc tú hơn các sơn khác,
phàm 2 nước kẹp đưa từ  xa đến bái phục,gọi đặc triều sa, là thượng
cách, có đặc triều thì dung kết tất chân, lại có hoành triều sơn , tắc
hoành khai trướng mạc có tình hướng huyệt, hoặc 2 bên như bài 
nha, gọi hoành triều sơn là thứ cách, tối hạ là ngụy triều cách, cũng
tiêm phong tú lệ nhưng đi thẳng vô tình, dưới không sơn chầu bái
trên không ý chính ứng,đó là ngụy triều sơn, chốn ấy lập huyệt thì
hại người không ít, nên khi chọn huyệt phải thẩm xét triều sơn chân
giả, chớ thấy huyệt tiền có phong loan nhọn tròn tú lệ thì cho là cát
có trường hợp không triều sơn mà có nước hướng về tụ thì cũng là
cát triều vậy, Dương nói có chân long ,vô triều sơn, chỉ khán chư 
thủy tụ kỳ gian, tức có sơn hướng sơn, vô sơn hướng thủy vậy, 
thủy có chân tình sẽ phát cự phú đại quí, hình tượng triều sơn và
tốt xấu cũng như  án sơn vậy, nếu có 5 tinh gồm đủ thì rất quí cách.
Duy bình nguyên khoáng dã một dải không gò núi thì triều án từ
đâu, Liêu công nói huyệt bình nguyên thì lấy bình nguyên làm triều
án,hể cao 1 tất là núi, hoặc gò cỏ hay bờ ruộng, miễn hơi cao đều là
triều án,  Tóm lại bất luận sơn cốc bình nguyên, cũng có đất quí mà
không triều sơn vậy, nhưng phải có gò thấp nhỏ, làm cận án đóng
nội khí mới phát phúc, đó là đích đáng không thay đổi, vả triều sơn
có rất nhiều cách, có đại long kết huyệt bị tòng sơn bao bọc, nơi
huyệt trung chẳng thấy ngoại dương gọi là triều sơn ám củng chu
đại quí, lại có 3 hay 4 phong đặc triều ấy gọi triều sơn loạn tạp cũng
là quí cách, lại có 1 phong cao lên trời mây gọi cô phong độc tú, lại
có 2 hòn 2 bên tai huyệt đối nhau gọi tả phụ hữu bật,cũng quí cách
xem hình tiếp theo để rỏ .
14. d 


15 d.                                       Lạc  Sa .
Lạc sơn là gò núi ở phía sau huyệt,chính ứng huyệt trường mà che
chở, phàm hoành long huyệt, hủng ót nghiêng ót các huyệt không
cốt phải có lạc sơn sát thân che ứng thác trướng nơi sau thì mới là 
chân thiết, nếu nhập thủ đụng lưng kết huyệt, hoặc huyệt tinh khởi
đỉnh thì không cần Lạc, bởi lạc sơn là hoành long gối huyệt chi sa
cực quan khẩn yếu, Đặc lạc là núi xa thẳng đến sát huyệt ứng lạc
chủ chợt phát phú quí., đại vượng nhân đinh, Tá lạc là hoành 
trướng liền huyệt không chừa trống không nên lạc ứng cũng có sức
tuy có yếu hơn  Đặc lạc, cũng là cát địa chân huyệt, duy hư  lạc thì 
không thẳng đến không hoành mà cách xa ra nên huyệt hậu không 
hư, tuy có núi nhỏ thấp né 1 bên tán loạn trống xa không gối huyệt
trường là hung địa giả huyệt, nên Đặc lạc là thượng cách,  Tá lạc là
thứ cách, Hư lạc không thể dùng
Chí ư hình tượng không cần chấp nhất miễn đoan nhiên thẳng
đứng cao rộng che hộ dừng để huyệt hậu không khuyết là cát cách
còn có, tả lạc hữu lạc trung lạc trường lạc đê lạc cao lạc đa lạc các
cách, cát hung cũng như  3 đại cách đả nói trên .
15 d.  

17. d                                     Long  Hổ  Sa
Thanh long là bên tả, Bạch hổ là bên hữu, Châu tước là trước mặt  
Huyền vũ là sau lưng, gọi chung là tứ thú .
Nên thanh long bạch hổ là tên riêng gọi 2 cánh tay tả hữu của 
huyệt, huyệt muốn tàng phong tụ khí cần phải có long hổ 2 sa bão
vệ tắc huyệt địa chu mật sinh khí dung tụ, Sa đó tự bản thân tả hữu
phát xuất ra là thượng cát, gò núi ở  2  bên sinh thành bao bọc làm 
long hổ kỳ thứ, nửa từ bản thân phát xuất nử  từ tha sơn họp thành
lại thứ nữa, tổng là muốn bao ôm huyệt trường đừng để cô lộ bị gió
là cát, lại cần vòng ôm hữu tình, cao thấp tương xứng, thiết kị tiêm
xạ phá toái, cao áp thấp hãm, tà bay thẳng dài, thô ác ngắn rút,
cường ngạnh khuyết lộ, đều bất cát, còn phải xem nước từ tả lai tắc
hổ sơn nên dài, nước từ hữu lai tắc long sơn nên dài, kiêm cần tay
dưới ôm bắt tay trên mới có sức, cũng có đất không long hổ vẩn cát
vậy, cũng có long hổ toàn mà hung vậy, chỉ tại long chân huyệt 
đích, long bất chân huyệt bất đích, long hổ tuy mỹ cũng vô dụng .
17. d                     

19. d                                La  Thành  Viên  Cục
Sa ấy tương liên với tiền triều hậu lạc chi sa gọi là La thành viên 
cục, tất yếu trùng điệp cao tung, chu vi bao quanh, che không bổ
khuyết, cũng như bờ thành, nên tên gọi vậy .

Hạ  Thủ  Sa
Hạ thủ là cánh tay phía dưới, cũng gọi hạ quan, bất luận  Đông
tây nam bắc phàm là bên đó nước chảy đi đều gọi hạ thủ, nơi đó có 
sa tắc có kết tác, hạ thủ vô sa tắc vô kết tác, dù đủ thanh long bạch
hổ cũng chưa hoàn mỹ, phép là bên nước chảy đi phải có hạ thủ sa
bao bọc lại cánh tay trên mới là cát địa, ví như huyệt tiền nước đảo 
tả tắc bên tả là hạ thủ thì muốn bên tả có sa ngược dòng lên dài 
hơn sa bên hữu mà ôm sa thủy bên hữu lại, Ví như  nước huyệt tiền 
đổ sang hữu thì hữu là hạ thủ, thì muốn cánh tay hữu có sa ngược
dòng lên dài hơn sa bên tả mà ôm sa thủy bên tả lại, đó gọi nghịch 
quan, chủ phát tài lộc mỹ địa,thản như hạ thủ sa co rút ngắn không
bao trùm hết cánh tay trên để nước chảy đi tuột luốt,thì mọi việc tốt
bất đắc lực là giả huyệt bất khả táng, nên nói hạ thủ hữu sa tắc phú 
hạ thủ vô sa tắc bần  .
19. d  


21 d.                            Thủy  Khẩu  Sa
Định hướng trước xem thủy khẩu, nơi nước chảy đi là thủy khẩu, 
thủy khẩu sa, tức gò núi 2 bên bờ nơi nước chảy đi, thủy khẩu vô
sa,tức thế nước chảy thẳng mà ra,không những âm trạch đại phá bại
dương cơ cũng lưu tán tài khí, nên thủy khẩu có núi tắc chu mật 
giao kết, hoặc tắc cao phong ngật nhiên đặc lập, hoặc tắc dị thạch
ló lên giửa dòng có hình như  kỳ cổ, ấn hốt, xa mã, qui xà v.v.. trùng 
điệp xa lắc đến cả dài chục dặm đó là đại cát thủy khẩu sa
phàm nơi giửa thủy khẩu có cầu, cổ thụ, từ  đường, đẳng cũng 
quan hệ họa phúc, nếu như bị nước xung tổn hoặc phạt mộc hủy 
từ đường, hung họa sẽ tới liền khi, cần nên thận trọng . 
21 d.


22 d.                           Hoa   Biểu   Hãn  môn                                                                      
Hoa biểu sơn, là phong loan đứng sửng nơi thủy khẩu, hoặc tắc
hai sơn đối nhau  nước từ  kẻ giửa 2 núi chảy ra, hoặc tắc núi lớn
cao trấn cản nghẹn giửa dòng nước, 2 thứ đều muốn cao tung thiên
biểu, mới xứng danh hoa biểu, thủy khẩu có đó kỳ nội tất có đại địa
Hãn môn sơn, là giửa thủy khẩu 2 núi đối lập, như môn hộ hãn vệ
vậy, gồm có 3 cách, 1) nơi trước huyệt, ngay ngắn ở tả hữu môn hộ,
phóng những cái đẹp tiền sa tiền dương từ xa vào, 2)  giang thủy 
dương triều, quang khai hãn môn, thủy từ trong môn hộ ra, dương
dương bằng phẳng, lai bất kiến nguyên, khứ bất kiến lưu,  3) thủy
khẩu quan lang khai thiết môn hộ,thủy từ đó thệ (đi), 3 thứ nầy đều
là hãn môn đại quí cách. Hãn môn sa hình thành nhật nguyệt kỳ cổ 
sư tượng qui xà đẳng trạng, lại có 9 linh 12 trùng hãn môn tất kết
cấm huyệt, 1 tầng 2 tầng thì xuất vương hầu hậu phi đại quí nhân,
nếu ngoài hãn môn có La tinh nữa là đặc biệt quí .
22 d.



24 d.                                 Bắc   Thần   Luận
Bắc thần là giửa thủy khẩu tài nghiêm thạch sơn, hình trạng quái
dị cản ở giửa dòng nước chầu vào,cũng gọi Tôn tinh, chủ phát đại
quí, trừ phi vương hầu đại địa, thông thường không dể có vậy,
cổ vân= nhất cá bắc thần quản vạn binh, phò mã công hầu chiêu
thảo danh, lại nói bắc thần cao đại xuất vạn tôn, nhược nhiên đê tiểu
dã triều thần, nên nói có bắc thần thì đất rất quí, xuất cả đế vương
công hầu khanh tướng,vậy khi gặp phải nên kín miệng không tùy
tiện nói ra mà phạm lộ thiên cơ,để chờ kẻ có phúc vậy,chí ư hình
tượng bắc thần quái dị như sư tượng kỳ lân, phi phụng,tiên hạc, hổ
long ,triển kỳ thôi giáp tung cao thẳng đứng giửa thủy khẩu là chân.

La  Tinh  Luận
La tinh, ở nơi giửa thủy khẩu đóng lại,có ụ có bến chợt lên hoặc
đá hoặc đất, nơi bằng đột nhiên cả cửa bốn mặt bị nước bao quanh
đá là thượng cát, đất thì kém hơn, ở phía ngoài la thành là quí, La
tinh ở trên trời là dư diệu của hoả, long thần là hỏa tinh, nên hình
tròn nhọn vuôn đoan chính là tốt, nhưng lại có chân ngụy hảy xem
cho kỷ, chân la tinh có đầu đuôi, đầu nghịch thương lưu,đuôi theo 
dòng nước, đại để có la tinh thì trong ấy có đất đại phú quí, la tinh
là chứng tá của quí địa không phải bổng dâng mà sinh, 
Kỳ dư có quan quỉ cầm diệu 4 tinh sa, đả có luận nghĩa ở quyển 1
nay thuật thêm đại khái,quan tinh là long hổ ôm ngang huyệt ngoài
sau lưng có núi kéo ngược tới trước là nó, phải chân long huyệt có
quan tinh mới cát, Quỉ tinh là núi chống giử sau lưng, gối lạc huyệt
trường vậy, cát hung như quan tinh,duy chớ quá cao sẽ đoạt huyệt
trung vượng khí, Cầm tinh là đá giửa thủy khẩu,cao ngưỡng 2, 3, 
trượng như măng, hốt, cá bơi, qui xà các hình chủ quan cực phẩm,
Diệu tinh, là ngoài khuỷu tay của long hổ và long thân chia chân
trước huyệt tả hữu đá lớn bén nhọn, đều gọi diệu tinh,phàm đất quí
tất có diệu,do vượng khí của long phát tiết mà sinh ra, chủ phát quí .
24 d.







25 d                           SA  PHÁP  TOÀN  ĐỒ
Sa pháp danh mục phồn đa, trừ các sa đả nói trên còn có  5 tinh
4 duy, 3 cát 6 tú, thiên ất quí nhân, sa mão (nón) sương khố, đẳng
danh mục, tóm lại không phải núi đá, gò đất, muốn huyệt chân gặp 
sa mới cát, huyệt giả gặp sa cũng giả có cũng vô ích thôi, khố quỹ
2 sa nếu ở thủy khẩu chi địa phát phú định chắc, thiên mã sa hình 
như ngựa là sa thôi quan quí, ấn kim sa ở phương quan quí, là quí 
nhân đái ấn chủ phát quí, sa mạo sa hình như  nón vải chủ phát quí
nga my sa vòng cong mỹ lệ hình như mày tằm chủ phát cung phi,
25 d 

HẾT  CHƯƠNG  4.


   D 26.                                   Bổ  Di .       ( bù xót )
        24 Sơn  Thủ Huyệt, Huyệt Thổ Cát Hung Đoán Pháp .
Nhâm Tý Quý 3 sơn thủ huyệt kiến Hoàng sa là chân huyệt
Sữu Cấn Dần 3 sơn  thủ huyệt kiến 5 sắc thổ là chân huyệt
Giáp Mão Ất 3 sơn  thủ huyệt kiến bạch sa, hoàng thổ là chân huyệt
Thìn Tốn Tị  3 sơn  thủ huyệt kiến 5 sắc thổ khí vật là chân huyệt
Bính Ngọ Đinh  3 sơn  thủ huyệt kiến hoàng sa  là chân huyệt
Mùi khôn Thân 3 sơn  thủ huyệt kiến 5 sắc thổ là chân huyệt
Canh Dậu Tân  3 sơn  thủ huyệt kiến 5 sắc thổ là chân huyệt
Tuất Càn Hợi .3 sơn  thủ huyệt kiến sa thạch là chân huyệt