Translate

Tìm kiếm Blog này

Tìm kiếm Blog này

Thứ Ba, 13 tháng 6, 2017

GIẢN DỊ PHONG THỦY BÍ QUYẾT

Nguồn: Cụ Tri tri
vietnambuysell.com


    A,                         GIẢN  DỊ  PHONG  THỦY  BÍ  QUYẾT
                                   TRITRI   SOẠN  HÈ  NĂM   1995
                                       ĐỆ  NHẤT  CHƯƠNG
                                     ÂM  TRẠCH  TỔNG  LUẬN
  1 a,                              Phong  Thủy   Định  Nghĩa
Âm dương diệu chỉ thậm tương nghi,  Tục thế dung dung khởi dị tri
Giai thị thần tiên huyền diệu xứ, Phàm nhân nả hữu tiết Thiên Ky
   Địa lý chi học, sao lại phân làm âm dương trạch, bởi la bàn chế định,
âm dương thủy phán, Âm trạch lấy nhật kỳ định cát hung,dương trạch
tắc lấy nguyệt ngẩu bốc họa phúc, 2 điều nầy không thể thiên phế mà
bỏ,chỉ có tương hằng đính lập, không thể gồm 1 mà luận, âm trạch là
nơi an táng ông bà cha mẹ, để tròn phận hiếu đạo, để khởi phát cho 
con cháu mai sau, nên nói bốc trạch an cư, tắc thần linh an mà tử tôn
thịnh, do vậy kham dư gia xưa nay cho rằng âm trạch là cần thiết, rồi  
sau đến dương trạch, lẽ trước sau là vậy .
                                              Khán  Địa  Nhập  Môn
     Sơ học phong thủy trước phải biết rỏ chính 5 hành, tam hợp 5
hành, song sơn 5 hành, thứ  là sinh vượng mộ dưỡng của kim mộc  
thủy hỏa 4 đại cục cùng 4 đại thủy khẩu nhận rỏ không nên lẩn lộn 
sau dùng la  bàn xem sinh vượng tử  tuyệt âm dương chân khí của
long huyệt, sa quí tiện đắc thất, thủy cát hung tiến thoái,đều phân
biệt rỏ ràng,thực tập thành thuộc.Khi đến một cuộc đất,trước dùng
địa bàn la kinh xem sinh vượng tử tuyệt của long, thứ dùng thiên                   
bàn la kinh xem thủy khẩu chảy đi tại chữ gì, lại xem quí nhân phương 
vị có quí nhân phong không, lâm quan phương có phong không , lại
Sinh Vượng Mộ Dưỡng hướng và thủy rỏ ràng, rồi dùng dây nhơ kéo
giăng ra 24 sơn 12 hướng song sơn để phân vượng sơn vượng thủy,
sinh sơn sinh thủy, tự sinh tự vượng, mộ hướng, dưỡng hướng để lập
huyệt, Xem long dùng nội bàn chính châm, xem thủy dùng ngoại bàn
phùng châm của La Kinh. /.
    1 a,                                                            1,

2 a                               Âm  trạch  quan  kiện
     Âm trạch quan kiện có 3 phần, 1.tức loan đầu thiên tinh, 2.chính 
châm phùng châm, 3.chư gia 5 hành, lấy 3 đó làm âm trạch cơ bản,
 Nay đem diệu lý của 3 thứ nầy tường thuật như sau  =
   Loan Đầu, là hình thế của sơn mạch, Thiên Tinh là theo phương vị của
tinh độ, như đông tây nam bắc, 24 hướng ,72 long, 120 phân kim, 365
triền độ mà phân khu, Chính châm là nội bàn của la kinh kim trực chỉ 
tý ngọ nam bắc,Phùng châm tức ngoại bàn của la kinh,kim chỉ nơi giửa 
kẻ của nhâm tý, bính ngọ, Chư gia 5 hành là chính 5 hành, bát quái 5
hành, hồng phạm 5 hành, tam hợp 5 hành, tứ trường sinh 5 hành, Ba
điều nầy là quan kiện của âm trạch, kẻ học phải tham thấu tỏ tường, để
khi dùng mới được tự nhiên,  Đây diệu lý 3 thứ nầy tường thuật như sau 
 
                                  Loan  đầu  thiên  tinh
     Loan đầu là hình thế của sơn mạch, Thiên tinh là tinh độ của 
phương vị, đông tây nam bắc gồm 24 hướng, 72 long,120 phân kim,
365 triền độ phân chia, 2 đó là trong ngoài của âm trạch, không bỏ
được, nói về loan đầu tuy hình tích rỏ ràng cũng phải dò xem lai
long để nghiệm mạch lạc, nói về thiên tinh, tuy thuộc phương vị
hư  không tựa hồ mênh mông vô bằng, nhưng có âm dương 5 hành
đủ để đun đúc thiên địa, 2 thứ nầy thật là thể dụng của âm trạch .
nhưng các kham dư gia hay bày kỳ lập dị để tỏ ra được bí truyền độc
đắc, hiển nhiên bất đồng với thường pháp, nên kẻ học thôi quan pháp
của Lại Bố Y, chấp nhất lấy thiên tinh làm chủ mà xem thường loan
đầu hình thế, dỉ chí long thế chưa thẩm định, đã dùng la bàn mà định
phương vị, đã không hiểu phương vị thiên tinh chỉ thuộc khuôn phép
tiêu nạp của huyệt mà thôi,  hành độ lai long thì không câu nệ vậy./ 
    2 a                                                               2,

Chính  châm  phùng  châm
     La kinh ( la bàn ) là mật bảo duy nhất để xem phong thủy, ai tinh
độ, chính phương vị, phân kim định huyệt đều dựa vào nó, khảo
 la kinh chế pháp, ư  ngày xuân phân lập niết 3 thước trắc nghiệm
nhật xuất để chính phương đông, ư  ngày thu phân lập niết 8 thước
trắc nhật nhập để chính phương tây,  giửa lại giăng giây thập để
trắc nghiệm nam bắc, như  vậy 4 phương đả đồng đều, sau lại chế
thêm thổ khuê để trắc 4 phương, vì  bởi khuê niết chỉ hướng nam 
không chuẩn xác, nên phân lập nội ngoại 2 bàn, nội bàn kim chỉ 
chính tý ngọ nên gọi chính châm, ngoại bàn niết sở trắc đang nơi
giửa kẻ nhâm tý bính ngọ nên gọi phùng châm, sau có kẻ thiên 
chấp nói kim chỉ giửa kẻ chính xác hơn nên lấy chính làm phùng, 
lấy phùng làm chính, lại tạo ra kim bàn ngân bàn, 3-7, 2-7, thiên bàn
địa bàn lý thuyết cơ hồ không biết cái nào là phải, có thuyết chính
châm dùng để kẻ long, phùng châm dùng định tọa hướng, 3-7, 2- 7,
dùng để tiêu sa nạp thủy, thật ra la kinh chế từ  thánh nhân, chính
phùng 2 châm có điểm tương soa bổn là hiện tượng tự  nhiên,vả lại
thiên khí địa khí nguyên bổn bất tề, thiên khí tại tý ngọ chi trung,
địa khí tại giửa kẻ nhâm tý bính ngọ, nên cổ thời hầu khí giả ư đông
chí nhật đặt huỳnh chung nơi nhâm tý, hạ chí nhật đặt lâm chung
nơi bính ngọ, xem đó thì diệu dụng chính châm phùng châm tự  rỏ

  3 a                                                            3,

Chư  gia  ngũ  hành
     Âm trạch mỹ ác áo chỉ chỉ tại trong 5 hành, nhưng địa lý thì 5
hành thiên biến vạn hóa, mà hình thế sơn mạch lại tại nơi thẳng ,
góc, vuôn, tròn, rộng, hẹp, đều có 5 hành,cốt yếu là, duy có trắc
khí đó nghiệm chất đó,chất thì cố định không đổi, khí thì tuần hoàn
không dứt,trắc nghiệm khí vận ngũ hành không là việc dể, may mà
 tiên hiền Ngô cảnh Loan đặc lập 3 thuyết để hậu học noi theo, 1 là
chính 5 hành dùng định phương vị, 2 là bát quái 5 hành dùng chủ
hình cục, 3 là hồng phạm 5 hành để lường sơn âm, cả 3 nầy là tiêu
chuẩn địa học, ngoài ra còn 4 kinh , 3 hợp, 4 sinh, song sơn, huyền
không, hướng thượng đẳng 5 hành,và kém hơn 3 thứ của Ngô thị
1/   Chính 5 hành quyết = đông phương mộc, nam phương hỏa, tây
phương kim, bắc phương thủy, trung ương thổ, 
2/   Bát quái 5 hành quyết = chấn canh hợi mùi tốn tân mộc,
kiền giáp đoài đinh kỷ sữu kim,   khảm quí thân thìn cụ thuộc thủy,
Ly nhâm dần tuất hỏa vi chân,     khôn ất cấn bính đồng thuộc thổ,
bát quái 5 hành tử tế luận,(dùng tên quẻ phối hợp can chi mà luận)
3/   Hồng phạm 5 hành, là đại 5 hành, cũng gọi tông miếu 5 hành ,
quyết = Giáp dần thìn tốn đại giang thủy, tuất khảm thân tân thủy
diệc đồng,  Chấn cấn kỷ 3 nguyên thuộc mộc, ly nhâm bính ất hỏa 
vi tông, Đoài đinh kiền hợi kim sinh xứ, Sữu quí khôn canh mùi thổ
 trung .( dĩ bát quái biến thông diễn ra 24 vị 5 hành biến hóa )
4/   4 trụ 5 hành =  thì bỏ trung cung thổ, lấy kim, mộc, thủy
hỏa mà định 4 phương ,
5/   4 kinh 3 hợp 5 hành =  4  kinh là lấy địa chi dần ngọ tuất hợp 
thành hỏa cục, tị dậu sữu hợp thành kim cục, thân tý thìn hợp
thành thủy cục, hợi mão mùi hợp thành mộc cục, 3 hợp là do sinh
vượng mộ  3  phương kết hợp mà thành,

    4 a                                                       4,



  5 a                                Chư  gia  ngũ  hành   2
6/    4 sinh 5 hành  =  là lấy  4  trường sinh, Giáp mộc sinh tại hợi,
Bính hỏa sinh tại dần, Canh kim sinh tại tị, Nhâm thủy sinh tại thân
(trên đây đều luận thủy la bàn tả toàn thuận khởi ),
     Ất mộc trường sinh tại ngọ, Đinh hỏa trường sinh tại dậu, Tân
kim trường sinh tại tý, Quí thủy trường sinh tại mão, (trên đây đều 
luận long, la bàn hữu toàn nghịch khởi
7/    Song sơn 5 hành là 2 chữ đồng cung hợp can chi, lấy nạp âm 
5 hành làm chủ vậy, 
8/    Huyền không 5 hành . là dựa vào thủy pháp để lập huyệt định 
hướng, lấy sinh nhập khắc nhập, sinh xuất khắc xuất mà phân cát 
hung, quyết là = Bính đinh ất dậu nguyên thuộc hỏa, Kiền khôn 
mão ngọ kim đồng tọa, hợi quí cấn giáp thị mộc thần, Tuất canh 
sữu mùi thổ vi chân, Tý dần thìn tốn tân kiêm tị, thân dữ  nhâm
phương thị thủy thần, 
9/    Hướng thượng thủy thần giả, lấy thủy khẩu định trường sinh,
 nếu không cát thủy không thể dụng, đó là cứu bần diệu quyết,
có hóa  tử  làm tự  vượng, hoặc tuyệt  xứ  phùng sinh diệu dụng .
                                                                5 a                                                    


     6 a                            Luận   sinh   khí .
     Hảo địa dần táng mão phát, đều do thừa sinh khí cả, vả lại âm 
trạch có Long ,sa, thủy, huyệt, hướng,cũng như  ngũ tạng của con 
người, tất nhiên có sinh khí mới sống đặng, vì vậy xem đất kết lấy
sinh khí làm duy nhất yếu chỉ, phàm xem đất nguyên long, trước xét 
sinh khí khi đến, tất có nước đi dẩn đường, thẩm huyệt cho chính
trước xét sinh khí khi tụ, tất có nước ngăn chặn, có sa bao vệ,không
gió thổi tan, đó là biệt rỏ biết tổng quyết của sinh khí vậy, nhưng 
thừa sinh khí phải cho đúng pháp, dĩ nhiên phát phúc, nếu sai pháp
đả không phát còn bị hại, táng lầm nơi đất chết không sinh khí, bất
quá chung qui bần tiện họa còn nhẹ, nếu được đất sinh khí mà táng
sai pháp, thì lại bị sát thân diệt tộc chi đại họa,
    Xưa nay loạn thần tặc tử, ban sơ giàu sang cả nước, có thể mộ địa 
tổ tiên họ sinh khí bồng bột long chân huyệt đích, nhưng ví táng  
không đúng phép, nên mới bị sát thân diệt tộc .
       Pháp thừa sinh khí có 3 điều như sau.
1)  Chọn nghịch bỏ thuận,
2)  Xét hình độ thế
3)  Xét kỷ lý khí
     Điều 1, điều 2 dể hiểu, điều 3 xét lý khí thì ảo diệu khó hiểu, thử nói
rỏ như sau, phàm tài huyệt,tất tiên nghiên cứ khai sơn khởi tổ, tú nào
xuất mạch hành độ, tinh nào làm tông giáng thế, long nào nhập huyệt,
do huyệt đến tổ cách bao nhiêu tiết số, tiết hầu có thuần bác hay 
không, sơn thôi thối vận, thủy xét lưu hành, sơn vận xét 10 dặm, thủy
vận độ 1000 thước ( khoản 300 m tây ), phải tiên biện cát hung, rồi sau
thẩm xét lý khí, phân biệt nghịch thuận, biện 3 phương, khán thập đạo,
tị 5 hại, tàng 8 phong, ( huyệt tiền hậu, tả hữu, 2 chân, 2 vai,bị gió lộng
      Long chéo lệch huyệt điểm nơi chính
      Long chính huyệt điểm nơi chéo lệch
     do vậy mới phản khí nạp cốt, tử  tôn năng đắc phúc vậy .
   . Thử  nãi thừa sinh khí chi tổng quyết dã .
                                                               6 A 

  7.a                             LUẬN   LÝ    KHÍ                      Tác giả   tritri
      Lý khí rất là ảo diệu phàm chọn huyệt, trước tiên coi lai sơn khởi 
tổ, tú nào xuất mạch hành độ, tinh nào tác tông giáng thế, long nào
nhập huyệt, do huyệt chí tổ cách nhau bao nhiêu tiết, tiết hậu có 
tạp bác hay không, sơn suy ngược vận, thủy xét lưu hành, sơn vận
xét 10 dặm, thủy vận xét ngàn thước, tất tiên biện cát hung, sau sẽ
xét lý khí, phân biệt thuận nghịch, biện tam phương xem thập đạo,
tị ngũ hại tàng bát phong, long chéo lệch, huyệt điểm nơi chính,
long chính huyệt điểm nơi chéo, hướng thủ can chi  cũng nên thận 
xét la bàn đo kỷ, nhưng huyệt hướng phân kim cộng có 120, không
ư  tuần có 24, không ư qui giáp 24,  là quỉ sát 36,  độ dùng được chỉ
còn 36 vậy, lại phải kim quẻ toàn, tiên hiền nói; Đắc kim bất đắc 
quái, chân thị hư  nhàn họa, đắc quái bất đắc kim, uổn phế dụng
công tâm , mà kim quái lưỡng toàn chỉ được 12 huyệt thôi, cho nên
thừa pháp an táng, chi sai tại phân kim định huyệt, bởi hình thế thô 
tích tăng cao ích hạ, lăng thiên cốc biến, đâu còn mặt mủi xưa kia,
duy có xét khí, thừa sinh xuất sát, tiêu nạp khống chế, nhập thần 
tinh biện, mới được hướng chính huyệt đích, không đến ngộ nhận
           Xưa nay phong thủy có nhiều môn phái, nên lý luận có khác
nhau, tuy nhiên Tam hợp tứ  đại cục, Tam nguyên, Huyền không,
Cữu tinh , bốn phái nầy được thường dùng, thịnh nhất lại là Tam 
hợp tứ đại cục cũng gọi là song sơn tam hợp ngũ hành, vì lấy hai
chữ tính đồng 1 cung, như = nhâm tý,  quí sữu, cấn dần , giáp mão,
ất thìn, tốn tị, bính ngọ, đinh mùi, khôn thân, canh dậu, tân tuất,
càn hợi, nó được chia làm 4 cục như sau .
Kim cục =   Tốn tị-  (sinh),      Canh dậu-   (vượng),     Quí sữu  (mộ)
Mộc cục=   Càn hợi-                  Giáp mão-,                          Đinh mùi-
Thủy cục=  Khôn thân-,          Nhâm tý-,                           Ất thìn-
Hỏa cục=    Cấn dần-,                 Bính ngọ-,                          Tân tuất-
Phàm tìm huyệt đứng nơi long nhập thủ mạch xem ở vòng thiên bàn
La kinh coi thủy phóng về đâu nhằm chữ gì,như thủy khẩu ở tân
tuất,càn hợi,nhâm tý là hỏa cục,thủy khẩu ở quí sữu, cấn dần, giáp
 mão là kim cục,thủy khẩu ở ất thìn,tốn tị, bính ngọ là thủy cục,thủy
khẩu ở đinh mùi, khôn thân,canh dậu là mộc cục,thủy khấu phóng
nước nếu hợp long bất hợp hướng gọi là thông huyền bất thông
quan,chủ sơ niên bất lợi về sau mới phát,nếu thủy khẩu phóng nước
đi hợp hướng không hợp long chủ ban đầu đại phát sau suy, nên
thủy khẩu phóng nước đi cần hợp hướng hợp long thì phát bền lâu
    7 a,                                                           7 a,


 8,a                                     12  Long  Lý  Khí  Ca .
 Kiền khôn cấn tốn vượng long hành, 
 Giáp canh bính nhâm long tứ sanh
 Ất tân đinh quí quan đới vị,   Thập nhị lai long yếu nhận chân
 Thủy phối chân long vi lý khí,    Đắc sinh đắc vượng thị kỳ phùng
 Lai long khứ  thủy năng thành cục,  Phú quí miên trường dịch tự  tân 
 Hỏa cục long thủy sinh vượng  4 cách ;
 Bính long cấn hướng thủy lưu tân,  Tốn khởi văn phong đắc lộ vân
 Cấn long Tốn sơn tân thủy khứ, 
 Hướng triều bính ngọ phúc tranh vanh
 Mộ phùng tân hướng ất long kết,  
 Thủy xuất kiền phương phúc thọ tăng
 Quí hướng bính long đa phú quí,   Giai duyên tốn thủy xuất kiền môn 
 Thủy cục long thủy sinh vượng  4 cách ;
 Thủy qui ất địa tý long lai, Khôn hướng kiền sơn vị cức hòe ( 3công )
 Phong tủng kiền cung ất thủy khứ  
 Khôn long nhâm hướng phúc đa tài,
 Tân long nhâm thủy qui tốn vị,   Ất hướng phùng chi quan lộc thôi
 Đinh hướng nhâm long quí cực phẩm,  Kiền sơn kiền thủy tốn vị qui
 Mộc cục long thủy sinh vượng  4 cách ;
  Long giáp cấn phong hướng triều kiền,
 Thủy phóng đinh phương xuất trạng nguyên
 Cấn phong giáp hướng long lai kiền 
 Tả thủy xuất đinh phúc miên miên
 Quí long giáp thủy hướng khôn lưu,
 Đinh hướng vi tôn xuất vương hầu
  Tân hướng giáp long sinh đinh giáp
 Cấn sơn cấn thủy diện khôn lưu
 Kim cục long thủy sinh vượng  4 cách ;
 Canh long quí khố tố triều tông,   Khôn vị cao phong tể tướng công
 Long tốn phong khôn canh hướng lập
 Quí phương phóng thủy phúc vô cùng
 Đinh long cấn khố tòng canh đáo
 Quí hướng lập doanh vị lục khanh
 Canh long ất hướng khôn sơn thủy 
 Qui cấn do lai phúc thọ tăng
                                                           8 A ,




  9,a                            Luận   Minh  Đường .
       Minh đường là sân ở trước huyệt, có núi bao quanh, có thủy 
chầu về, như  triều đường của thiên tử, có nội, trung, ngoại minh 
đường,nội minh đường cũng gọi tiểu minh đường,ở bên dưới quầng 
tròn, rộng vừa phải là tốt, quá rộng không tàng khí, quá hẹp thì 
bức xúc không quí hiển, Trung minh đường ở trong vòng tay long
hổ, muốn vuôn tròn hợp cách, đừng có đá nhọn xỉa vào, đừng có 
dòng nước chảy lở hay nghiêng, đại minh đường ở trong án sơn,
minh đường, nơi đây thì muốn rộng lớn, có thể chứa thiên binh vạn 
mã, đó là vương hầu lăng tẩm hùng bá thiên hạ,chứa vài trăm người 
là đất khanh tướng cơ chỉ, ấy là luận đại minh đường vậy, còn duổi
chân đạp được án, phát tiền thiên vạn quán, đó là nội minh đường,
cần nên tụ vậy, tục sư không hiễu nội nghi đoàn tụ ngoại nghi 
khoan cứ cố chấp thuyết dung vạn mã, cho rằng rộng rải là quí, mà 
không biết nội minh đường rộng thì khí bất tụ vô vọng phát lộc, 
trong long hổ có nội đường đoàn tụ, nguyên thần thu thập đóng 
lại nội khí, ngoài có ngọai đường rộng  la liệt viễn tú mới là mỹ địa
Tóm lại huyệt thấp minh đường gần thêm kín gió táng rồi thì phát,
nếu huyệt ở trên cao minh đường lại cách xa, dù cho chân long 
huyệt đích cũng khó phát phúc,có câu Huyệt cao minh đường viển 
phát phúc chờ thành chuyển, ý nói là không bao giờ có vậy, chí  ư   
cục thế lớn nhỏ duy xem theo long mạch mà định luận, lai long trăm
dặm kết 100 dặm qui mô, lai long ngàn dặm kết ngàn dặm khí khái,
long mạch ngắn nhỏ kết cục nhỏ đó là thế tất nhiên, thiết bất khả
võng tham đại cục thế, Sưu thủy kinh ghi 180 dạng tiết thiên cơ tải 
đường khí, 81 biến cách, cũng đủ lắm rồi, các tiết sở luận tuy chỉ  1
ít, học giả chỉ cần xem đọc minh đường kinh,đương biết minh đường
muốn bằng chánh khai thoáng, đoàn tụ triều cung vi cát, nghiêng
xả dóc hóc phá toái chèn nghẹt trở ngược là hung, hiểu được vậy  
thì cách khác đều thông .

   9,a                                                           9 a,



 10,a                     Luận   Minh  Đường  Nhập  Thức .
     Tầm được chân long huyệt đích phải biện biệt minh đường, minh
đường quí nơi tụ khí, tán khí chớ nên, phàm thị huyệt tiền nơi bằng
phẳng là chổ minh đường, minh đường khu biệt có  3 , thủ dụng tất 
tương tham, tiểu minh đường tại dưới quằng tròn, lập huyệt biện
chân giả, trung minh đường tại trong long hổ, giao hội yếu suy
tường, đại minh đường tại án sơn nội, phải có tứ thủy hợp,tiểu minh
đường tường nhập môn thiên,nhập thức bất trùng tuyên,trung minh
đường bất trọng hình thể, diệu tại thư hùng hỷ, đại minh đường yếu 
thủy khẩu lang, chân khí tụ kỳ gian, quan lang tỉ như vi nhận tỏa,
câu liêm cũng kỳ loại, hoặc là sơn cước hay lũng điền, tỏa kết hỷ 
trùng trùng, thêm có hoành long lai tác huyệt, bối hậu yếu đường 
tắc (chèn bít), phải dùng 3 đường đồng đều xem, họa phúc nhất ban 
luận, minh đường quang minh chiếu vạn phương, khoan khoác thủy
vi lương, hảo sa hảo thủy thường tụ diện,chủng chủng giai khả kiến,
nếu như  hẹp té làm sao dung, do như  tọa tỉnh đồng, minh đường 
khoan khoát nhân hiên khoát, thông minh và lanh lợi, nhược nhiên
hẹp té nhân  xuẫn ngoan, bỉ ổi tham lận, cổ vân đường khoan dung
vạn vật, cũng kị khoáng dã, ngoại lan nhược tại miêu mang gian,
 tuy lan như vị lan, vạn sơn thủ khoan vi chính pháp, bình dương
tắc thủ hẹp, vạn sơn nhược hiệp bình dương khoan, thử cách bất tu
 khan, tiên hiền nơi ấy phân công vị, trưởng phòng cư tả biên, nhị
phòng cư trung tam phòng hữu, thử lý tối ưu trường, thủy cư tả vị
trưởng phòng hưng, tụ trung chư tử phú, nhược cư hữu vị tiểu 
phòng  phát, kinh chỉ yếu phân minh, minh đường long pháp cụ thị 
hung, vĩnh thế bất long hưng, long chân huyệt chính đường khí tụ,
phú quí tất phi tế (nhỏ) Long huyệt nhược hung đường khí hảo, nhị
kỷ (20 năm ) thiện ôn bảo, long huyệt nhược hảo đường khí hung, 
sơ táng tiện bần cùng, nhất kỷ chi dư  (trên 10năm ) đường khí ngộ
gặp tới phát phúc tất nhiên đại, nhập thức vốn không sai .
   10,a                                                       10,

   11,a                                      Luận   Điên  Đảo .     (trở ngược )
       Điên đảo là nghịch lại, âm trạch phong thủy luôn lấy nghịch bỏ
thuận, lệ pháp phản khí nạp cốt để ấm sở sinh, đó là táng pháp 
chọn lấy nghịch vậy, ngoài ra như long mạch từ bên tả lại,thì huyệt
nên điểm nơi bên hữu, long mạch từ bên hữu lại, thì huyệt nên điểm
nơi bên tả, thủy vốn là động, nhưng muốn khéo được ở chổ yên 
lặng, sơn vốn là tĩnh, nhưng muốn khéo được ở chổ động,(lồi lõm )
trực lai thì hoành thụ, hoành lai thì trực thụ, thạch sơn thì điểm thổ 
huyệt, thổ sơn thì điểm thạch huyệt, chổ cấp thì điểm nơi hoãn,chổ  
hoãn thì điểm nơi cấp, chổ đột lên thì điểm nơi phẳng bằng, chổ
phẳng bằng thì điểm nơi đột lên, cường lai thì thủ nhược, nhược lai
thì thủ cường, sơn đa thì yếu thủy, thủy đa thì yếu sơn, khoan xứ
thủ khẩn, khẩn xứ thủ khoan,cương giả thủ nhu, nhu giả thủ cương,
chúng đại thủ tiểu, chúng tiểu thủ đại, chúng cao nghi thủ đê(thấp)
chúng đê nghi thủ cao, ngạnh lai tắc hạ nhuyễn,  nhuyễn lai tắc hạ 
ngạnh, trực giả thiên khúc, khúc giả thiên trực, chính giả thiên tà, tà 
giả thiên chính, dương lai âm thụ, âm lai dương thụ, phàm thử
chủng chủng, định lệ giai thủ nghịch bất thủ thuận, thị tức điên đảo
chi nghỉa dã .( thiên là xỉa vô, tức táng vào)
   11,a                                                        11,



12 a                                      Luận   Thiển  Thâm .    (cạn, sâu )
      Kinh nói; cạn sâu thừa đúng mức, phong thủy tự thành, trái lại
dù ngưu miên cát địa vẩn chưa thấy lợi mà đả bị hại rồi, phản cát vi
hung do vậy mới nói cạn sâu thật là phong thủy đệ nhất yếu nghỉa,
chí ư  biết được cạn sâu, các phái lập thuyết phân vân, có lấy bát 
quái phân âm dương mà định giả, có dùng 9 tinh phân thước tất mà
định giả, ( 9 tinh là dùng hình thế núi phân phối mà được tên), 1- 
đầu tròn thân cao là thái dương tinh, 2- đầu tròn thân mang vuôn là
thái âm tinh, 3- đầu tròn thân cong là kim thủy tinh, 4- thân cao vót 
là tử khí tinh, cũng gọi mộc tinh, 5- tam thể đều mang vuôn là thiên
tài tinh, 6- đầu tròn chân nhọn là thiên cương tinh, 7-đầu tròn mang 
vuôn chân ngay thẳng là cô diệu tinh, 8- thân bén nhọn là táo hỏa
tinh, 9- thân uốn khúc là tảo đảng tinh,trên đây là 9 danh của 9 sao) 
đều không chính xác, cạn sâu còn phải xét theo chi (bình địa long)
lũng (cao sơn long) Chi dỉ đột vi chính, Lũng dỉ oa vi chính, âm lai
tắc dương thụ, dương lai tất âm thụ, bởi dương phát ở ngoài nên
chôn cạn để thừa chi, âm tàng ư nội nên chôn sâu để thủ chi, đó là
chi lũng phân âm dương, định nghỉa cạn sâu chính xác vậy, nhưng
kham dư gia cũng phải xét theo mổi địa phương tùy đất dày mỏng,
chôn trên mặt đất, rồi lấy thêm đất nơi khác đem đến bồi thêm, gặp
đất dày mạch trầm, dù đào sâu  2 hay 3 mét, cũng không gọi quá 
sâu, thật ra cạn sâu cũng là vì thừa sinh khí vậy .

   12,a                                                        12,



  13 a                       Luận  Quan  Quỉ  Cầm  Diệu .
       Quan là gò đống sinh ở phía sau lưng án sơn, hình thể không 
      được cao chọi vọi, lại muốn có hồi đầu,
      Quỉ sinh ở sau lưng chủ sơn, muốn sát gần là quí, không nên 
      quá dài, quá dài sẽ bị triệt khí,
      Cầm sinh ở nơi giửa của thủy khẩu, phàm có núi nhỏ, hoặc hòn
     đá nhỏ có hình như tình quyến luyến, hướng về huyệt là hợp cát,
      Diệu sinh ở phía ngoài khuỹu tay của long hổ, phàm có núi nhỏ
      hay gò đá nhỏ, dựng đứng lên  có hình hướng về huyệt là cát,
      Tóm lại nơi huyệt kết hội đủ có 4 thứ  nầy là tăng thêm điều tốt.
Bitmap
      Vã lại vô quan bất quí, vô quỉ 
      bất phú, vô cầm bất vinh, 
      vô diệu bất cữu, tứ giả cụ vô,   
     tiện thị hư hoa vô dụng chi địa .
 
             Quan  Quỉ  Cầm  Diệu  Đồ.
 
 
 
 
 
 
                                                        13.a






14 a                         Luận  Thập  Ác  Đại  Kị .
  1. Ác - long phạm kiếp sát phản nghịch, kiếp sát là chổ nhập mạch 
có đá nhọn, hoặc gò lở cắt đức long mạch, khi long vận đến đó tất
sinh đại họa, phàm làm quan to bổng nhiên bị tịch biên gia sản, hay
bị giết là tổ mộ bị kiếp sát, phản nghịch chủ con cháu làm giặc cướp
bất trung bất hiếu bị cầm tù .
  2. Ác-  long phạm kiếm kiếp (sống kiếm), thẳng cứng là khí chết
chủ sát sư,  hình con trạch,con lương chết, cũng không kết huyệt
  3.  Ác-  huyệt phạm hung sa ác thủy, trước huyệt có nước chảy 
đâm vào, con lộ đâm vào, thác nước chảy rền, chủ yểu thọ đa tai.
  4.  Ác -  huyệt phạm phong suy khí tán, huyệt có gió lộng không
tụ khí, lộng bên trái trưởng phòng tuyệt, bên phải tiểu phòng tuyệt
trước huyệt cơ bần, sau huyệt yểu thọ.
  5.  Ác -  sa phạm thám đầu trùy hung (đấm ngực) thám đầu xuất 
dâm đãng chơi đêm, đấm ngực chủ khắc con hại vợ,
  6.  Ác - sa phạm phản bối vô tình, phản bội tinh ngang ngược,
chủ hung họa .
  7.  Ác -   thủy phạm xung xạ phản cung, xung tả hũu trước sau 
chủ bần cùng dâm loạn, xạ cũng tả hữu trước sau chủ yểu thọ .
  8.  Ác -  thủy phạm hoàng tuyền, bính ngọ hướng thủy xuất tốn tị
canh dậu hướng thủy xuất khôn thân, Nhâm tý hướng thủy xuất 
kiền hợi, giáp mão hướng thủy xuất cấn dần, đều là hoàng tuyền 
thủy chủ phá sản tuyệt tự,
  9.  Ác-  hướng phạm xung sinh phá vượng, nước chảy phá hướng 
dưỡng sinh chủ tuyệt tự,  nước chảy phá hướng vượng chủ phá 
gia bại sản.
10,  Ác-  hướng phạm bế sát thoái thần, bế sát là nước không chảy 
về mộ khố chủ bại tuyệt, thoái thần là không thể lập hướng, vì chủ
không phát phúc.
    14 a                                                          14 ,






15 .a                                 Luận  Cửu  Ca  Thập  Yếu .
   Phải phối hợp La bàn dụng pháp, long huyệt sa thủy hướng 5 pháp
đồng xem mới ra diệu lý .
1) .  Địa hữu thập khẩn yếu; 1 yếu hóa sinh khai trướng, 2 yếu lưỡng
nhỉ tháp thiên, 3 yếu hà tu giải nhãn, 4 yếu tả hữu bàn toàn, 5 yếu
thượng hạ 3 đình, 6 yếu sa cước nghi chuyển, 7 yếu mnh đường khai
tĩnh, 8 yếu  thủy khẩu quan lang, 9 yếu minh đường nghinh triều, 10
yếu cữu khúc hồi hoàn .
2).   Địa hữu thập bất táng;  1 bất táng thô ngoan khối thạch, 2 bất
táng cấp thủy than đầu, 3 bất táng câu nguyên tuyệt cảnh, 4 bất táng
cô độc sơn đầu, 5 bất táng thần tiền miếu hậu, 6 bất táng  tả hữu hưu 
tù, 7 bất táng sơn cang liêu loạn, 8 bất táng phong thủy bi sầu, 9 bất 
táng tọa hạ đê tiểu, 10 bất táng long hổ tiêm đầu .
3).   Địa hữu thập phú;   1 phú minh đường cao đại, 2 phú tân chủ 
tương nghinh, 3 phú hàng long phục hổ, 4 phú chu tước huyền chung
5 phú ngũ sơn tung tú, 6 phú 4 thủy qui triều, 7 phú sơon sơn chuyển 
cước, 8 phú lãnh lãnh viên phong, 9 tú long cao bão hổ, 10 phú thủy
khẩu cẩn bế ,
4).   Địa hữu thập quí;    1 quí thanh long song ủng, 2 quí thanh long
cao tủng, 3 quí thường nga thanh tú,4 quí kỳ cổ viên phong, 5 quí
nghiên tiền bút giá, 6 quí quan cáo phục chung, 7 quí viên sinh bạch
hổ, 8 quí đốn bút thanh long, 9 quí bình phong tẩu mã, 10 quí thủy
khẩu trùng trùng .
5).   Địa hữu thập bần; 1bần thủy khẩu bất tỏa, 2 bần thủy lạc không 
vong, 3 bần thành môn phá lậu, 4 bần thủy bị trực lưu, 5 bần bối hậu
ngưỡng ngõa, 6 bần 4 thủy vô tình, 7 bần thủy phá thiên tâm, 8 bần
sàn sà thủy tiếu, 9 bần 4 cố bất ứng, 10 bần cô mạch độc long
6).   Địa hữu thập tiện; 1 tiện 8 phong xuy huyệt, 2 tiện chu tước tiêu 
tác, 3 tiện thanh long phi khứ, 4 tiện thủy khẩu phân lưu, 5 tiện bãi đầu
nạo vỹ, 6 tiện tiền hậu xuyên phong, 7 tiện sơn phi thủy tẩu, 8 tiện tả
hữu giai không, 9 tiện sơn băng sơn liệt, 10 tiện hữu chủ vô tân .
      15 .a                                                      15  a.



  16 a          Tiếp      Luận  Cửu  Ca  Thập  Yếu .
7).   28 yếu;  Long yếu sinh vượng, yếu khởi phục, yếu mạch tế, huyệt
yếu tàng, long lai yếu trực, cục yếu khẩn (chặt), đường yếu minh, yếu
bình, sa yếu minh, yếu ngưng, sơn yếu hoàn,thủy yếu nhiễu,long yếu
miên, hổ yếu triền, long yếu cao, hổ yếu đê, án yếu cận, thủy yếu tĩnh
tiền yếu quan, hậu yếu quỉ, hựu yếu chẩm lạc, lưỡng biên giáp chiếu,
thủy yếu giao, thủy khẩu yếu quan lang, huyệt yếu tàng phong, yếu
tụ khí, 8 quốc bất yếu khuyết, la thành bất yếu tả, sơn yếu vô ao, thủy
yếu bất phản khiêu, đường cục yếu chu chính, sơn yếu cao khởi //.
8).   26 phạ;  Long phạ ngoan, huyệt phạ khô hàn,sa phạ phản bối, 
thủy phạ phản khiêu, huyệt phạ phong xuy, sơn phạ can khô phá toái
thủy phạ khiên ngưu trực xạ, sa phạ nghịch thủy tẩu thoán, thủy phạ  
phản cục khuynh tả (đổ), đối sơn phạ đĩnh hung(ểnh ngực), long hổ
phạ áp huyệt, đường phạ phản tà (nghiên), tiền phạ khô tỉnh, hậu phạ
ngưỡng ngõa, oa huyệt phạ ngoan muộn, sơn phong phạ  8 sát, thủy
phạ kiêm 8 sát, sơn phạ tọa tiết quỉ, thủy cục phạ huỳng tuyền, long
hổ phạ đọan yêu, minh đường phạ dã khoáng, huyệt tiền phạ trụy thai
(thấp hõm xuống ), lai mạch phạ thừa sát, Cao phạ thương thổ ngưu,
đê phạ thoát khí mạch, mạch phạ lộ thai, phong phạ kiếp đỉnh, thủy 
phạ lâm đầu, hựu phạ cát cước, huyệt phạ thừa phong, quan phạ ai tử,
long phạ khởi lãng, hổ phạ thoán đường , La kinh diện thượng phạ 
song kim, lập huyệt thừa khí phạ hỏa khanh .
9).   22 hảo; Long hảo loan phi phụng vũ, huyệt hảo tinh thần tôn
trọng, sa hảo đôn quân ủng tòng, thủy hảo sinh xà xuất động, long
hảo bất hoán chính tinh, huyệt hảo hung tinh tàng bình, sa hảo hũu 
triều hữu ánh, thủy hảo hữu xà hữu kính, long hảo nghịch tống  trùng
trùng, huyệt hảo già tàng 8 phong, sa hảo đôn khởi thiên phong, sa
hảo hình hảo ngọa cung, long hảo trác bút đốn thương, huyệt hảo tứ
chính minh đường, sa hảo triều dương tú giang, long hảo như  tăng  
tọa thiền, sa hảo như nhân bỉnh bút, thủy hảo như cung thượng 
huyền, long hảo hữu cái hữu tọa, huyệt hảo hữu bao hữu lõa, sa hảo
hữu đôi hữu đóa, thủy hảo hữu quan hữu tỏa //.
 16,a    Hết   Đệ Nhất  Chương         16 a,         

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét